Giáo sư Nguyễn đình cường
”Một chút giai thoại về bài hát Mộng Dưới Hoa”
Nhạc sĩ Phạm Đình Chương đã đóng góp nhiều tác phẩm thật đẹp, như những hạt kim cương lóng lánh, vào kho tàng tân nhạc Việt Nam – đây tôi không có tham vọng trình bày về sự nghiệp sáng tác phong phú và giá trị của ông, mà chỉ xin ghi lại một giai thoại nhỏ đã được chính ông kể trong một lần tôi chở ông trên xe khi đi thăm ca sĩ Hoài Trung đang nằm trong một bệnh viện ở Pasadena vào năm 1990. Khi tôi hỏi về trường hợp sáng tác bản Mộng Dưới Hoa thì ông cho hay là khoảng năm 1957 gì đó, ông đọc tập thơ Đường Vào Tình Sử của Đinh Hùng, thấy bài Tự Tình Dưới Hoa hay hay, có nhiều hình ảnh đẹp, lời thơ có vẻ cổ điển ước lệ với mỹ nhân, với trăng sao, mây nước, suối rừng, mơ mộng v,v…, ông bèn âm ư nho nhỏ trong miệng, rồi bật ra thành những nốt nhạc đầu tiên, và ông đã ghi lại trên giấy.
Khi phần nhạc đã hoàn chỉnh thì chỉ có một số lời thơ được giữ nguyên văn, ngoài ra chính ông và thi sĩ Đinh Hùng đã gọt giũa lại rất nhiều. Đến phần điệp khúc, thì cấu trúc của bản nhạc lại thay đổi, không thể dùng 7 chữ được vì chỉ có 6 nốt, nên ông đã yêu cầu Đinh Hùng đặt lời mới cho đoạn đó. Dĩ nhiên công việc này không quá khó khăn với nhà thơ và cũng có phần đóng góp của chính Phạm Đình Chương. Từ đó hai đoạn điệp khúc 6 chữ đã được lồng vào giữa bài hát, một cách rất khéo léo, tự nhiên và nhất quán, nghĩa là vẫn giữ được không khí rất lãng mạn và cổ điển của bài thơ.
Nhớ lại hồi còn ở trong nước, mỗi lần từ Đà Lạt về Sài Gòn, vợ chồng tôi đều đến phòng trà Đêm Màu Hồng để nghe ban Thăng Long trình diễn. Thỉnh thoảng chúng tôi được nghe chính tác giả bài hát này. Đặc biệt mỗi lần hát đến câu “Mắt xanh lả bóng dừa hoang dại” thì ông ngừng lại ngang xương khiến ban nhạc lỡ bộ, rồi nói: “Lả bóng, các bạn ạ, đừng hát Là bóng, mất đẹp của câu thơ đi.” Nói xong câu đao ông lại say sưa và mơ màng hát tiếp, ban nhạc lại ngoan ngoãn đệm theo.
Có thể nói bài hát Mộng Dưới Hoa là một hòa hợp tuyệt vời giữa thơ và nhạc của hai người bạn và cũng là hai thiên tài về thi ca và âm nhạc của chúng ta. Đây cũng là một trong những bản tình ca tuyệt đẹp của nền tân nhạc Viêt Nam. Tuy nhiên trong tuyển tập 20 bài thơ phổ nhạc nhan đề MỘNG DƯỚI HOA xuất bản năm 1991 tại Orange County, Pham Đình Chương lại ghi chú tên bài thơ là Dưới Hoa Thiên Lý. Có thể nhạc sĩ đã nhớ lầm chăng?
Sau đây chúng ta thử đọc lại cả nguyên bản bài thơ và phần lời của bản nhạc: Nguyên bản bài thơ: Tự Tình Dưới Hoa
Chưa gặp em tôi vẫn nghĩ rằng: Có nàng thiếu nữ đẹp như trăng. Mắt xanh lả bóng dừa hoang dại, Thăm thẳm nhìn tôi không nói năng. Bài thơ hạnh ngộ đã trao tay,
Ôi mộng nào hơn giấc mộng này? Mùi phấn em thơm mùa hạ cũ,
Nửa như hoài vọng, nửa như say. Em đến như mây, chẳng đợi kỳ, Hương ngàn gió núi động hàng mi. Tâm tư khép mở đôi tà áo,
Hò hẹn lâu rồi – Em nói đi.
Em muốn đôi ta mộng chốn nào? Ước nguyện đã có gác trăng sao. Truyện tâm tình: dưới hoa thiên lý, Còn lối bâng khuâng: Ngõ trúc đào. Em chẳng tìm đâu cũng sẵn thơ, Nắng trong hoa, với gió bên hồ Dành riêng em đấy. Khi tình tự,
Ta sẽ đi về những cảnh xưa. Rồi buổi ưu sầu em với tôi, Nhìn nhau cũng đũ lãng quên đi. Vai kề một mái thơ phong nguyệt, Hạnh phúc xa xa mỉm miệng cười.
Lời bài hát: Mộng Dưới Hoa
Lời 1: Chưa gặp em tôi vẫn nghĩ rằng, Có nàng thiếu nữ đẹp như trăng. Mắt xanh là bóng dừa hoang dại, Âu yếm nhìn tôi không nói năng.
Ta gặp nhau yêu chẳng hạn kỳ, Mây ngàn gió núi đọng trên mi. Áo bay mở khép nghìn tâm sự,
Hò hẹn lâu rồi – Em nói đi.
Nếu bước chân ngà có mỏi, Xin em dựa sát lòng anh, Ta đi vào tận rừng xanh, Vớt cánh rong vàng bên suối.
Ôi, hoa kề vai hương ngát mái đầu, Đêm nào nghe bước mộng trôi mau. Gió ơi, gửi gió lời tâm niệm, Và nguyện muôn chiều ta có nhau.
Lời 2: Tôi cùng em mơ những chốn nào, Ước nguyền chung giấc mộng trăng sao Sánh vai một mái lầu phong nguyệt, Hoa bướm vì em nâng cánh trao.
Hy vọng thơm như má chớm đào, Anh chờ em tới hẹn chiêm bao. Dưới hoa tưởng thấy ngàn sao rụng, Hòa lệ ân tình nguôi khát khao
Bước khẽ cho lòng nói nhỏ, Bao nhiêu mộng ước phù du, Ta xây thành mộng nghìn thu, Núi biếc, sông dài ghi nhớ.
Ôi, chưa gặp nhau như đã ước thề, Mây hồng giăng tám ngả sơn khê, Bóng hoa ngả xuống bàn tay mộng.
Và mộng em cười như giấc mê.
(Ghi lai để hoài niệm Đinh Hùng và Phạm Đình Chương)
(VĂN NGHỆ Magazine số 7-2001)
Thi sĩ thái tú hạp
Những tác phẩm của nhạc sỹ Phạm Đình Chương đều mang những sắc thái riêng biệt khi đề cập đến tình tự quê hương, dân tộc, đến tình yêu hạnh phúc đôi lứa, đến vẻ đẹp muôn màu của tạo hóa… Ở mỗi lãnh vực trong thế giới âm nhạc của Phạm Đình Chương đều cưu mang tiềm ẩn chan chứa những cảm xúc say đắm tuyệt vời qua những giây phút xuất thần cảm hứng và chính những ưu điểm tỉnh thức sáng tạo linh diệu nầy của nghệ thuật đã đưa những tác phẩm của ông vượt qua thời gian vượt qua những thăng trầm của lịch sử và mệnh nước của Dân Tộc.
Phạm Đình Chương đã tạo nên chỗ đứng trang trọng trong sinh hoạt Văn Học Nghệ Thuật Việt Nam qua những tác phẩm giá trị của ông. Trong tương quan giữa thi ca và âm nhạc Phạm Đình Chương là một trong những nhạc sỹ phổ thơ tài hoa nhất bằng những âm thanh hòa nhập vào hồn thơ và chắp cánh cho bài thơ bay bổng lên đỉnh trời nghệ thuật – Như những bài thơ Đôi Mắt Người Sơn Tây của Quang Dũng, Đêm Màu Hồng và Nửa Hồn Thương Đau ý thơ của Thanh Tâm Tuyền, Người Đi Qua Đời Tôi của Trần Dạ Từ, Đêm Nhớ Trăng Saigon, Khi Tôi Chết Hãy Mang Tôi Ra Biển của Du Tử Lê, Mưa Saigon Mưa Hà Nội của Hoàng Anh Tuấn, Mộng Dưới Hoa của Đinh Hùng, Mắt Buồn của Lưu Trọng Lư, Màu Kỷ Niệm của Nguyên Sa, Hạt Bụi Nào Bay Qua của Thái Tú Hạp….
Qua đến kiệt tác Hội Trùng Dương ông quả thật là một trong những thiên tài âm nhạc. Bằng âm hưởng ba miền đất nước thân yêu Phạm Đình Chương đã dẫn dắt người nghe chiêm nghiệm vẻ đẹp của quê hương Việt Nam gấm vóc nghìn đời không đổi thay, đi để thương và xa để nhớ quay về nguồn cội dấu yêu. Sau biến cố đau thương của lịch sử dân tộc cho dù người Việt chúng ta có lưu lạc nơi phương trời viễn xứ nào nhưng cứ mỗi độ Xuân về Tết đến chúng ta chỉ cần nghe vọng lên nhạc phẩm Ly Rượu Mừng của Phạm Đình Chương rộn ràng niềm vui chúng ta không khỏi bồi hồi tưởng nhớ đến những mùa Xuân thanh bình ở quê nhà. Cho dù Phạm Đình Chương không còn nữa nhưng những tác phẩm âm nhạc của ông đã trở thành bất tử qua thời gian và không gian trong tâm hồn người Việt chúng ta.
Thi sĩ Du Tử Lê viết về Ca khúc “Ly rượu mừng” phẩm-vật-tinh-thần trong truyền thống Tết Việt Nam
Đề cập tới sự nghiệp âm nhạc giá trị của cố nhạc sĩ Phạm Đình Chương, nếu chỉ nói tới khía cạnh thơ phổ nhạc (dù cho ông được ghi nhận như một thiên tài) mà không đề cập tới những lãnh vực khác, tôi cho là một thiếu sót không thể tha thứ. Vì từ ngày bắt đầu sáng tác, ở tuổi 17, tới ngày từ trần, ở tuổi 62, cuộc trường chinh âm nhạc của họ Phạm là, những ngọn cờ đã cắm được trên nhiều đỉnh cao nghệ thuật.
Khởi đầu với những ca khúc lấp lánh tin yêu lồng ngực tuổi trẻ, Phạm Đình Chương đi lần tới những ca khúc mang nhiều tính hiện thực, như “Tiếng dân chài,” “Được mùa,” hoặc đất nước, ca dao như “Anh đi chiến dịch,” “Lá thư người chiến sĩ,” “Khúc giao duyên,” “Mười thương”… Và, dĩ nhiên, tình ca, một đỉnh ngọn cao ngất khác của ông.
Dù ở núi non âm nhạc nào, ca từ Phạm Đình Chương cũng đều thấm đẫm thi tính. Ngay tự những ca khúc thời khởi đầu sự nghiệp, khi chỉ mới 17, 18 tuổi, người ta đã thấy ông như một thi sĩ, viết lời cho ca khúc của mình.
Thí dụ: “Bình minh xuyên qua khe núi (ú u ú u) / Nguồn vui leo tia nắng đây rồi / đem hơi ấm cho đời / trẻ như đôi mươi.” (Sáng rừng) Hay: “Có suối uốn thân ven chân núi ngân / hòa câu sơn nữ hát mong tình quân” (Đất Lành)…
Sau này, chúng ta có: “Em ơi đừng khóc sầu chia ly / vì lệ tuôn rơi làm héo xuân thì / dù đêm sâu như hồn chúng mình” (Đêm cuối cùng). Hay: “Ai chia tay ai đầu xóm vắng im lìm / Ai rung lên tia mắt ngàn câu êm đềm / Mong sao cho duyên nghèo mai nắng reo thềm / Đẹp kiếp sống thêm” (Xóm đêm). Hoặc nữa: “Chiều nay nước xuôi dòng đại dương có em tên sông Hồng dâng sóng tuôn trên nguồn. Vẩn vơ nắng quái vươn trên phù sa có những cô thôn mờ xa đón bầy dân đánh cá.” (Hội Trùng Dương / Tiếng sông Hồng). Hay: “Miền Trung vọng tiếng, em xinh em bé tên là Hương giang, đêm đêm khua ánh trăng vàng mà than. Hò ơi, phiên Đông Ba buồn qua cửa chợ, bến Vân Lâu thuyền vó đơm sâu.” (Hội Trùng Dương / Tiếng sông Hương) v.v…
Riêng với ca khúc “Xóm đêm,” tôi nghĩ, cố nhạc sĩ Phạm Đình Chương không chỉ hiển lộng bản chất thi sĩ, ông còn cho thấy khía cạnh nhà văn, hiểu theo nghĩa quan sát, ghi nhận một cách nhậy bén những chi tiết mà người bình thường (thậm chí một nhà văn tầm tầm…) khó thể nhận ra.
Nói chung, “Xóm đêm” như tên gọi, vốn là cảnh đìu hiu của một khu lao động. Ở điểm này, Phạm Đình Chương không phải là nhạc sĩ duy nhất viết về sự nghèo khó hay, khốn khổ của giai tầng lao động. Trước và sau ông, có nhiều nhạc sĩ đã, vẫn và sẽ còn khai thác đề tài ấy.
Tuy nhiên, dù cho đó là những ca khúc viết về đời nghèo, kiếp nghèo, số hoặc phận nghèo thì, đa số ca từ của những ca khúc này, thường rơi vào một trong hai trường hợp: Hoặc thậm xưng tức, cực tả cảnh nghèo. Hoặc thô thiển với những hình ảnh, ghi nhận hời hợt. Có thể, do nơi các tác giả kia, chỉ đề cập tới cái nghèo như một phông, nền cho chủ tâm khác. Nên chúng dễ mang tính trừu tượng, lãng mạn, chứ không phản ảnh một nét thực trạng nào của cảnh đời.
Căn bản ca khúc “Xóm đêm” là một tình ca, một tình ca xiển dương thương yêu (hay tin yêu), nơi bản chất thiện lương của con người dù ở hoàn cảnh nào, y cứ trên tính chung thủy – – Nhưng, nghe kỹ, trong “Xóm đêm” của họ Phạm có một cụm từ, chỉ 5 chữ thôi, ông đã vẽ lại (bằng ca từ và nốt nhạc) một trong những nét tiêu biểu nhất của sinh hoạt xóm nghèo. Đó là câu “Hắt hiu vàng ánh điện câu,” nằm trong đoạn nhạc mở đầu: “Đường về canh thâu / đêm khuya ngõ sâu như không màu / qua phên vênh có bao mái đầu / hắt hiu vàng ánh điện câu…”
Ở cụm từ “qua phên vênh,” chữ “vênh” là chữ “đắt” nhất – – Nó không chỉ mang tính tượng hình (vật chất) mà, nhờ sự vênh = cong, hé mở, chúng ta được dẫn tới hình ảnh kế tiếp: “có bao nhiêu mái đầu” (con người) – – Một hình thức ảnh-dẫn hay thông-ngữ – – (Chữ dùng trong lãnh vực thi ca về phương diện kỹ thuật) – – Cho thấy họ Phạm đã là một diệu-thủ. Mặc dù, tôi không loại bỏ trường hợp khi viết xuống, tác giả không hề có chủ tâm như tôi vừa trình bày.
Trường hợp này, chúng ta vẫn có thể dùng một trong những định nghĩa về thiên tài: Người tình cờ “bắt được” những điều mang ý nghĩa to lớn hay đơn giản, nhỏ bé mà, người khác không “bắt được!”
Nhưng khi chuyển từ ngữ-cảnh “qua phên vênh có bao mái đầu” tới “hắt hiu vàng ánh điện câu,” theo tôi, cả một thực tại xóm nghèo, đã được họ Phạm ghi khắc bằng những nhát búa cuối cùng, hoàn tất bức tượng ba chiều của cảnh đời hiu hắt này.
Ở đây, tôi xin mở một dấu ngoặc, để bạn đọc sinh trưởng ngoài Việt Nam hiểu rằng, tại những nước chậm tiến (như Việt Nam, nhất là những xóm nghèo), không phải ai cũng có được cho gia đình mình một đường giây điện riêng. Muốn có điện dùng, người nghèo phải dùng giây câu điện từ những nhà có đường giây điện chính. Vì thế, dòng điện trở nên quá yếu. Những ngọn đèn vẫn sáng lên, nhưng nó cũng chỉ có thể cho những gia đình này, một thứ ánh sáng yếu ớt, vàng vọt!…
Tuy nhiên, tài hoa của cố nhạc sĩ Phạm Đình Chương không dừng ở “Xóm đêm.” Đỉnh cao nhạc thuật của ông được thời gian đánh giá, ghi nhận, qua trường ca bất tử “Hội Trùng Dương,” và ca khúc “Ly rượu mừng.”
Với tôi, trường ca “Hội Trùng Dương” của Phạm Đình Chương là bức tranh toàn cảnh Việt Nam nghìn đời, với tất cả nét đẹp của phong tục, tập quán, truyền thống dùm bọc, thương yêu…được ông mượn hình ảnh 3 con sông của ba miền, chảy trôi trên nền dân ca từng phần đất nước; trước khi chúng nắm tay nhau, cùng chảy ra biển lớn.
Vẫn theo cảm nhận của tôi thì, trường ca “Hội Trùng Dương” của Phạm Đình Chương còn tàng-ẩn ý nghĩa hợp nhất, chấm dứt cuộc phân ly, đoạn bào theo huyền sử trăm con của Việt tộc, với 50 con lên núi, 50 con xuống biển nữa. Phải chăng, đó là tính vĩ đại của trường ca này?
Dù vậy, cũng ở trường ca vừa kể, tôi biết có người đã đặt vấn đề:
-Nơi đoạn thứ hai “Tiếng sông Hương” của trường ca, có câu: “Ngày vui tan đao binh, mẹ bồng con sơ sinh, chiều đầu xóm, xôn xao đón người trường chinh,” là một khuyết điểm lớn, không thể chấp nhận được! Số người này lý luận rằng, khi tác giả tả người chồng đi lính lâu năm (trường chinh), người vợ ở nhà, thủy chung chờ chồng thì, không thể có con mới đẻ (sơ sinh). Trừ phi…ngoại tình!
Tới giờ, tôi vẫn còn kinh ngạc trước cái gọi là “khám phá” người phát ngôn kia! Họ đã không phân biệt được hiện thực trong văn nghệ, không hề là hiện thực trong đời thường!
Theo tôi, một sự thực trăm phần trăm trong đời thường, khi được thi sĩ, nhạc sĩ… mang vào văn bản, sáng tác của họ, lập tức, nó không còn là sự thực “nguyên mẫu.” Nó đã bị khúc xạ. Tôi muốn gọi đó là sự-thực-khúc-xạ. Cách khác, chúng ta luôn có nhiều hơn một sự thật. Nhất là với văn học, nghệ thuật, Huống hồ chi, hình ảnh người vợ bồng con sơ sinh, đón chồng chinh chiến trở về, trong trường ca “Hội Trùng Dương” chỉ có tính biểu tượng (symbolization). Một biểu tượng đoàn viên. Gia đình. Hạnh phúc.
Tôi không nghĩ, một người có trình độ hiểu biết trung bình nào, lại đi tìm tính xác thực trong “Chinh phụ ngâm khúc,” hay “Đoạn trường tân thanh”… Tôi cũng không nghĩ, một người chưa mất trí nào, lại đi đo đếm độ chân xác trong “Thơ say” của Vũ Hoàng Chương, “Lửa thiêng” của Huy Cận, “Mê hồn ca” của Đinh Hùng, hoặc “Hòn vọng phu” của Lê Thương…
Trở lại ca khúc “Ly rượu mừng” ở tỷ lệ (scale) nhỏ hơn, ca khúc này theo tôi, đã như một phẩm-vật-tinh-thần dâng cúng tổ tiên mỗi độ Xuân về. Vẫn theo tôi, đó là “ly rượu” đất nước gấm hoa, “ly rượu” tổ quốc độc lập, “ly rượu” ước mơ quê hương muôn đời thanh bình, được chia đều cho “anh nông phu,” “người thương gia,” “người công nhân,” qua tới “người chiến sĩ,” “bà mẹ già,” “đôi uyên ương” “người nghệ sĩ”…Một phân chia bình đẳng, đồng đều cho mọi tầng lớp. Tôi muốn nhấn mạnh thêm, người ta có thể tìm thấy đặc tính phân biệt giai cấp ở nhiều dân tộc, nhiều quốc gia trên thế giới. Nhưng Việt Nam thì không.
Nếu nhớ lại câu ca dao “Nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ,” ta sẽ thấy mọi cố tình phân chia giai cấp trong xã hội Việt Nam, là một áp đặt kiên cưỡng, trá ngụy theo mô hình xã hội tây phương. Và, người chỉ ra sự cưỡng chế vừa kể, chính là Phạm Đình Chương, tác giả “Ly rượu mừng” vậy.
Với thời gian, một số tục lệ đón mừng Nguyên Đán của chúng ta, có thể đã hay sẽ phải thay đổi. Như chúng ta đang bỏ dần tục “xông đất” đầu năm. Như nhiều gia đình người Việt ở hải ngoại, vì lý do gia cư, đã bắt đầu “thắp” những nén nhang điện (không mùi hương); đốt những giây pháo điện (không xác pháo)…Nhưng, ca khúc “Ly rượu mừng” tôi tin, sẽ còn, mãi còn như một phẩm-vật-tinh-thần không thể thiếu của tập thể ta, mỗi mùa xuân về.
Bởi vì, đó là “ly rượu… mừng!” Ly rượu tâm thức. Chúng ta không chỉ cùng nhau nâng cao ly rượu ấy, những dịp mừng Xuân – – Mà, chúng ta còn có thể chia nhau ly rượu tâm thức này, bất cứ lúc nào; khi hoan lạc mỉm cười với chúng ta.
Rất mong, cố nhạc sĩ Phạm Đình Chương, ở đâu đó trong cõi vô hình, hiểu rằng, chúng tôi đã tiếp nhận một ca khúc của ông, như thế!