
Sáng Rừng – Video
I’ve been a diehard music fan since my youth, but we began to understand the structure of music when we learned to DJ 12 years ago. After a few years of DJing with vinyl, a program called Serato was introduced that allowed me to DJ using MP3’s with the same control I had with vinyl. As a bonus though, unlike vinyl, MP3’s can be edited and remixed. My first production endeavors were simple re-edits of songs for improved mixing.
My friend John Goff, a lifelong analog and electronic musician, would help me with these re-edits and indulged me as I became more ambitious with my arrangements. John suggested that we build some original music together. We put some instrumental compositions together, and then serendipitously met Merritt Lear and her former bandmate Joe Cassidy. Merritt added incredible vocals and melody ideas, and Joe added guitar and production/arrangement. We completed two songs, decided to name our project NØISE, and to rush produce a 7 inch for release at my 50 Shades of Black art show. I worked up some art for a screen-printed cover, and we cut and glued 500 sleeves to complete the NØISE “Little Lions” 45 RPM 7 inch. Additionally, all 500 are signed and numbered but will still be priced at $10… with no added “Art Tax” in sight. You can listen to the music on the turntables provided in the Subliminal Projects gallery, or buy it for the art. To be clear though, this is not an art project with music included, it is a music project with art included. We’ll release some stuff digitally eventually, but it’s vinyl only for now. Get the NØISE “Little Lions” 7 inch at 50 Shades of Black.
PHẠM THÀNH ghi nhận
Lorem ipsum dolor sit amet, consectetur adipiscing elit. Ut elit tellus, luctus nec ullamcorper mattis, pulvinar dapibus leo.

Nhà văn Mai Thảo và Vũ Khắc Khoan
Nhà văn mai thảo
Hoài Bắc Phạm Đình Chương
Bao nhiêu năm vẫn chỉ một con người, vẫn chỉ một phong cách. Ở giữa Hợp ca Thăng Long lẫy lừng như vì sao ở giữa, hoặc cây Tây-ban-cầm ôm trước ngực ngoài tiền trường mênh mông lỗi lạc một mình, Phạm Đình Chương với những ca khúc ở mãi cùng lòng người, và Hoài Bắc với tiếng hát nam tôi cho là hay nhất, vẫn là Hoài Bắc Phạm Đình Chương của một con đường, một cõi nhạc riêng.
Con đường ấy, suốt bốn mươi năm đã đi hết những buồn vui và những mộng tưởng một thời. Vẫn còn những biển khơi và những chân trời đi tới. Cõi nhạc ấy, trọn bốn mươi năm có tài năng và có tâm hồn làm thành mưa nắng, nên đã là một cảnh thổ và khí hậu hàng đầu của âm nhạc Việt Nam.
Cuối cùng là chẳng có một đổi thay nào. Sau bốn mươi năm, chúng ta vẫn yêu mến Hoài Bắc Phạm Đình Chương bằng một mến yêu không bao giờ thay đổi.
Nhà văn vũ khắc khoan
Nhân danh Tình Yêu, Tự Do, Con Người …
Tự cõi nhạc Phạm Đình Chương bỗng vang lên những cung bậc lạ lùng.
Không đong đưa Đôi mắt người Sơn Tây, không tái tê Chân trời tím ngát. Mà chát chúa, tan tác, nổ dồn ngược dốc chiếc Lambretta ba bánh, rầm rập bước chân biểu tình nhân danh Tình Yêu, Tự Do, Người, la lên, hét lên những khẩu hiệu, những bàn tay gân guốc giơ thẳng lên trời, vươn lên những cột đèn, những bàn tay quấn quýt những bàn taỵ
Một tuổi trẻ lớn lên cùng giông bão, những đam mê, u uẩn, day dứt, sửng sốt, bàng hoàng, những đam mê hôm nay tuổi trẻ khóc trên vai.
Không Trần Dạ Từ, không Đinh Hùng, không cả Quang Dũng. Mà Thanh Tâm Tuyền. Thơ đã thành nhạc. Nhạc không chỉ là một phương tiện. Nhạc lấy lại địa vị một ngôn ngữ.
Và nhạc và thơ quấn quýt như âm và dương tìm đường trở về thái cực. Không giao duyên mà giao hoan rực rỡ, dị kỳ. Trong một ngôi nhà mái tôn mưa Sài Gòn đổ xuống. Tận cùng một hẻm cụt. Giữa một bidonville.
Nhạc thét lên.
Cười lên sặc sỡ
La qua mái ngói, thành phố, đồng ruộng
Bấu lấy tim tôi
Thành nhịp thở.
Ngõ cụt đường làng, cỏ hoa cống rãnh,
Cây già đá sỏi bùn nước mặn nồng(**).

Tìm Biết về PĐC
PHẠM THÀNH ghi CHÚ
NẾU CÁC BẠN TRẺ CHƯA TỪNG BIẾT VỀ TÁC GIẢ, TÔI MUỐN DẪN DẮT CÁC BẠN QUA NHỮNG PHẦN TÌM HIỂU SAU ĐÂY:
MỘT SÁNG TÁC LỪNG LẪY NHẤT CỦA PHẠM ĐÌNH CHƯƠNG:
Bạn có thể chọn một trong bốn tác phẩm sau đây:
Ly Rượu Mừng
Trường Ca Hội Trùng Dương
Mộng Dưới Hoa (phổ thơ Đinh Hùng)
Đôi Mắt Người Sơn Tây ( phổ thơ Quang Dũng)
BỐN CA KHÚC TIÊU BIỂU CỦA DÒNG NHẠC PHẠM ĐÌNH CHƯƠNG
Bạn có thể chọn cả bốn tác phẩm nêu ở phần trên:
Ly Rượu Mừng
Trường Ca Hội Trùng Dương
Mộng Dưới Hoa (phổ thơ Đinh Hùng)
Đôi Mắt Người Sơn Tây ( phổ thơ Quang Dũng)
CÁC TÁC PHẨM ĐƯỢC YÊU CHUỘNG LIỆT KÊ THEO THỂ LOẠI:
Tình tự dân tộc:
Trường ca Hội Trùng Dương, Ly Rượu Mừng, Tiếng Dân Chài, Đón Xuân, Xuân Tha Hương
Tình Ca:
Mộng Dưới Hoa, Thủa Ban Đẩu, Đêm Màu Hồng, Người Đi Qua Đời Tôi, Nửa Hồn
Thương Đau, Khi cuộc tình đã chết,
Ca Khúc Hải Ngoại:
Đêm nhớ trăng Sàigòn, Quê hương là người đó, Ta ở trời tây, Hạt bụi nào bay qua
I’ve been
My friend John Goff, a lifelong analog and electronic musician, would help me with these re-edits and indulged me as I became more ambitious with my arrangements. John suggested that we build some original music t

Phạm Thành
Phạm Thành là trưởng nam của NS PĐC. Anh bắt đầu đi vào con đường âm nhạc, không phải bằng các lớp học piano hay guitar vỡ lòng cho một cậu bé vào tuổi lên mười. Anh bắt đầu làm quen với các nốt nhạc qua việc chép nhạc cho cha anh. Hằng tuần, sau khi NS PDC viết xong hoà âm cho các chương trình nhạc trên đài radio thời đó, bố anh đã thường giao bài hoà âm tổng phổ cho cậu con trai để PT chép riêng ra cho từng nhạc cụ, cho piano, kèn, trống, bass v.v… Đây phải kể như một phần công việc hoàn toàn về graphic thì đúng hơn vì P.T. lúc ấy vẫn chưa được học nhạc để biết đọc những gì anh chép.
“ Tôi còn nhớ tôi hì hục chép cho bố mình để ông đem lên đài phát thanh và chia cho ban nhạc dùng hằng tuần. Nếu có những lỗi chép sai nốt nhạc thì các nhạc sĩ trong chương trình – toàn là những nhạc sĩ thành danh thời đó – như NS Văn Phụng đánh piano, NS Nguyễn Hiền – clarinet, nhạc sĩ Đan Thọ – violin, bố tôi chơi bass v.v… họ tự sửa lấy trong lúc thu thanh”. Đó là một vài kỷ niệm trong thời niên thiếu của PT với cha mình là vậy.
Khi sang Hoa Kỳ du học thì PT bắt đầu dùng computer để làm graphics, Khi cha anh sang được tới Cali và cha con được đoàn tụ thì PT đã thực hiện cuốn sách nhạc chép bằng computer đầu tiên, nhan đề “ Phạm Đình Chương – 10 ca khúc thơ phổ nhạc”. Cái tên hiệu Mộng Dưới Hoa Music Productions cũng được dùng cho công trình ấn loát đầu tiên của anh.
Từ
Từ khi NS PĐC qua đời vào năm 1991 cho tới năm nay là 2025, cuộc hành trình của PT, với hoài bão muốn gom góp toàn bộ sự nghiệp sáng tác của cha mình cho thật đầy đủ, đã kéo dài trên 34 năm. Anh ước mong là một ngày nào đó, tất cả những ai muốn tìm hiểu tường tận về tác giả và những sáng tác của ông, đều sẽ có nơi chốn trên mạng để đọc được đầy đủ mọi tài liệu và dữ kiện chính xác và cần thiết. Quan trọng hơn cả là việc gìn giữ các sáng tác của cha anh, cho được chính xác từ nốt nhạc tới lời ca, cùng rất nhiều chi tiết quan trọng và thiết yếu của từng bài hát mà tác giả đã để lại.
Trong thập niên 2010 thì P.T. đã hoàn tất được một cuốn sách thật công phu và đầy ý nghĩa. Đó là in một tập nhạc gồm toàn thể những sáng tác của NS PĐC, gồm tất cả là 49 ca khúc, mang tên Phạm Đình Chương-Toàn Bộ Sáng Tác. Vào cuối năm 2016, sau hơn ba năm thực hiện, PT cũng đã hoàn tất xong bộ đĩa nhạc Phạm Đình Chương- Tình Khúc Tiêu Biểu với 4 compact disk. Trong những project vừa kể, PT đã đóng vai là một Executive Producer.
Sau khi cha anh qua đời thì PT có theo học về thanh nhạc (voice) và đã thâu thanh một số bài của thân phụ trong bộ đĩa PDC – Tình Khúc Tiêu Biểu. Ngoài cương vị là người thực hiện, anh cũng đã trình diễn cùng các ca nhạc sĩ thân hữu trong những buổi trình diễn đó tại quận Cam. Sinh hoạt này kéo dài tới khoảng 2017.
Khi nạn dịch Covid xẩy ra thì PT đã ngừng hẳn những hoạt động trên, cho tới giữa năm 2024 thì anh mới tìm lại được cảm hứng để bắt tay trở lại công việc trước đó. “ Tôi cho là những việc nói trên, về dòng nhạc PĐC thì đối với tôi dương nhiên là rất hiếm quý. Cũng may, nhờ có sự kiên trì và hỗ trợ của gia đình nên coi việc nay như tạm xong 95%. Đây cũng là cái may mắn cho cá nhân tôi, vì cuộc hành trình này đã đem lại cho tôi một niềm hạnh phúc và hãnh diện to tát – như thể đó là cái gia tài âm nhạc mà NS PDC đã để lại cho riêng tôi.”
PT hiện đang sống tại quận Riverside, cách quận Cam không xa. Trước đây, anh sinh kế là một chuyên gia về Kế Toán, Thuế Vụ và Đầu Tư Địa Ốc. PT còn có một số khả năng và sở thích khác như thiết kế và sửa chữa nhà cửa, làm các mộc sản (woodworking) cũng như chơi cờ Vây. Do đó, ngoài những thời giờ dành cho PĐC.com thì lúc nào PT cũng năng động – nhờ vào đó tương đối khoẻ mạnh hơn ông cụ anh rất nhiều.

NS Vũ Thành và Cung Tiến
Nhạc sĩ vũ thành
Hoài Bắc Phạm Đình Chương
Tác phẩm thành công nhất của Phạm Đình Chương, theo tôi, là Mộng Dưới Hoa, thơ Đinh Hùng phổ nhạc. Nét đặc thù của tác phẩm này là hơi nhạc tuy rất Việt Nam, mà lại được viết theo âm giai tây phương, chứ không cần đến ngũ cung như hầu hết các sáng tác có âm hưởng thuần túy Việt Nam khác. Ngoài ra, Mộng dưới hoa còn đặc biệt ở điểm rất cân đối và được cấu tạo như cung cách một bản nhạc “mẫu” trong các sách giáo khoa về sáng tác.
Câu nhạc đầu gồm 16 trường canh (mesures), chia làm hai bán cú. Bán cú thứ nhất được kết bằng một bán kết (cadence à la dominante) ở trường canh thứ tám (“… nhìn em không nói năng”…), nghĩa là gồm tám trường canh, được coi như một [dấu] chấm phẩỵ Bán cú thứ hai gồm tám trường canh được chấm dứt bằng một toàn kết (cadence parfaite), coi như một dấu chấm câu.
Câu đầu như vậy là khai đề, câu giữa gồm tám trường canh với [lối] chuyển cung rất khéo léo làm thành những dị kết (cadences rompues) là một phá đề. Và câu kết lấy lại ý nhạc của khai đề để đi đến chung cục (cadence finale) coi như một chấm hết. Đó đúng là hình thức đúng đắn nhất của một sáng tác nhạc và luôn luôn được đem ra làm mẫu mực trong các sách giáo khoa về sáng tác (composition musicale).
Ngoài ra, Mộng dưới hoa còn đáng được coi là một kỳ công vì phổ nhạc vào thơ Việt Nam là một việc cực khó. Người phổ nhạc chẳng những phải lệ thuộc vào số chữ mà còn phải lựa cung bậc cho đúng luật bằng trắc của bài thơ, không như trường hợp phổ nhạc thơ Pháp hay thơ Anh, chỉ cần theo đúng số chữ mà thôi. Vì vậy, thường thường các bài thơ Việt Nam được phổ nhạc đều viết theo thể tự do, không gò bó, thì mới theo sát được [âm] bằng trắc của từng chữ.
Làm theo thể mẫu hết sức cân đối mà vẫn giữ đúng được bằng trắc của từng chữ, ta phải ngả nón trước Phạm Đình Chương.
Nhạc sĩ cung tiến
Nếu phải dùng một tính từ duy nhất để xác định đặc điểm của những ca khúc Phạm Đình Chương, thì có lẽ tôi sẽ chọn từ ngữ “đằm thắm”. Dường như bất cứ một bài hát nào của anh – từ những khúc mô tả một cảm xúc cá nhân (Xóm đêm), gợi lại một dĩ vãng (Mưa Sài Gòn mưa Hà Nội, Nửa hồn thương đau), chia xẻ nhịp đập chung của trái tim tập thể (Ly rượu mừng, Đón xuân, Hò leo núi), đến những khúc lý tưởng hóa những tình tự dân tộc (Hội trùng dương, Bài ngợi ca tình yêu), và đặc biệt là những khúc hát làm thăng hoa ái tình (Mộng dưới hoa, Đêm màu hồng) – ta đều thấy cùng tỏa ngát ra, từ giai điệu hay lời ca, một hương thơm của tình cảm sâu sắc, đậm đà và tha thiết.
Ở Phạm Đình Chương người ta không thấy những đam mê giả tạo, những phẫn nộ gò ép, và nhất là rất hiếm thấy những hô hoán om sòm của loại văn nghệ tuyên truyền chính trị, dù là từ bên này hay bên kia giới tuyến ý thức hệ.
Ấy là những lý do tại sao hễ cứ bắt đầu hát hay nghe một ca khúc nào của Chương, là ta cứ không muốn cho nó chấm dứt, mà cứ muốn hát lại hay nghe lại ca khúc đó.
Ý nhạc (motif) của ca khúc cứ vương vất, lãng đãng như sương như khói trên không gian âm nhạc. Nò cứ bám chặt lấy ký ức người nghe, ngón tay người đàn, và bắt buộc họ phải nghe lại một lần nữa, dạo thêm
một lần nữa.
Riêng về chất liệu và kỹ thuật tạo nhạc thanh của Chương, thì có thể nói rằng thế giới của anh đã hết rồi cái ám ảnh “ngũ cung”, mà là thế giới chói chang của thang âm bảy nốt Tây phương không ngỡ ngàng, của điệu thức trưởng/thứ (major/minor modes) Tây phương không ngượng ngập, với những hợp âm quãng ba (tertian chords) là những viên gạch xây cất, với chủ âm tính (tonality) đóng vai đạo diễn, và với bậc thứ âm trên thang âm đóng vai đổi phông, thay cảnh (“chuyển giọng” hay”chuyển khóa”-modulation). Cung cách chuyển giọng của anh, vì thế, cũng rất là hiền lành và “cổ điển”: công thức cơ bản của nhạc chủ âm (tonal music), đơn và thuần vậỵ
Nhưng dù được ươm trong rừng thảo mộc nào, phương Đông hay phương Tây, thì giai điệu và hòa âm (hàm ý) của anh cũng đã nở rộ thành những đóa hoa thơm, quý và hiếm. Những giai điệu và hợp âm ấy đêm nay sẽ rướn vút lên một lần nữa trong không gian âm nhạc, và như cánh chim bay đi sẽ chẳng níu lại được. Nhưng tôi nghĩ rằng ý nhạc của chúng sẽ còn phảng phất trong tâm tưởng người nghe như hương lan đêm. Sẽ còn chập chờn trong ký ức người hát như cánh bướm mộng. Và như phấn dư, như hương thừa của một loài hoa thơm và bướm đẹp, sẽ còn rơi rớt trên ngón tay của kẻ dạo đàn. Sẽ còn nồng, còn đậm dư vị ngọt đắng trêo đầu lưỡi của một ôm hôn tình ái/ Và rất xa xôi, mà gần gũi, như thoáng cười của nàng Mona Lisa. Bởi vô cùng đằm thắm.
(*) Tham dự buổi trình diễn năm 1986, ngoài Ban hợp ca Thăng Long (Hoài Bắc, Hoài Trung, Mai Hương), còn có các ca sĩ Kim Tước, Quỳnh Giao, Lệ Thu, nhạc trưởng Nghiêm Phú Phi với các nhạc công Đan Thọ, Hoàng Thi Thao, Dương Đức Trường, và Kim Lộc.
(**) Thơ Thanh Tâm Tuyền, trong Liên Đêm-Mặt trời tìm thấy (1966).

Phan Lạc Phúc
Nhà báo phan lạc phúc
Chuông điện thoại réo lên trong đêm khuya. Một cú phone từ bên kia Thái Bình Dương, từ Mỹ báo tin: “Phạm Đình Chương đã mất rồi, Hoài Bắc không còn nữa”. Tôi đặt phone xuống mà thấy đêm khuya thêm vắng lặng mênh mông. Ở cái tuổi mình, trên 60, cái ranh giới tử sinh thật là mờ ảo, ở đấy rồi đi đấy, còn đấy mà mất đấy. Thành ra ít lâu nay, tôi cứ phải làm một con tính trừ thê thảm. Mấy năm trước mất Thanh Nam, rồi Vũ Khắc Khoan, bây giờ Phạm Đình Chương – Hoài Bắc. Già thì càng cần có bạn, mà bạn già thì càng ngày càng thưa thớt. Tôi đi cải tạo 10 năm, rồi sống nín thở trên 6 năm, vừa mới lặn ngòi ngoi nước sang được đến đây thì bạn đã đi vào tịch mịch. Bạn ta Phạm Đình Chương đã đi thật rồi, một người viết ca khúc tầm cỡ của Việt Nam đã mất, ngôi sao bản mệnh của Ban Hợp Ca Thăng Long đã tắt.
Tôi chơi với Phạm Đình Chương đã lâu, vào khoảng năm 1942 – 1943, hồi tụi tôi vừa mới lớn lên. ”Khi mới lớn tuổi mười lăm, mười bảy. Làm học trò mắt sáng với môi tươi” (1). Tôi biết Chương trong ngày hội học sinh Trường Bưởi, trong những buổi cắm trại ở chùa Trầm, chùa Thày, Tây Phương Hoàng Xá (2).
Ngày ấy, chúng tôi say mê hát ”Quê nhà tôi chiều khi nắng êm đềm” (3), ”Này thanh niên ơi, đứng lên đáp lời sông núi” (4) và Chương đã là một tay đàn giọng hát khá nổi của học sinh Hà Nội. Nhưng mà Chương có hai người anh nổi tiếng: anh Phạm Đình Sĩ, một cây “kịch” và anh Phạm Đình Viêm, một cây “tenor”. Chương còn có một người chị trứ danh, chị Thái Hằng, hoa hậu “bất thành văn” của suốt một miền Bạch Mai – Phố Huế. Còn người em út của Chương, Thái Thanh thì lúc ấy Thái Thanh còn nhỏ, đang còn học tiểu học, còn là một nụ hoa. Phải đợi đến thập niên ’50, bông hoa Thái Thanh mới bắt đầu rực rỡ và tiếng hát Thái Thanh mới được lên ngôi.
Hà Nội ngày ấy tuy được mệnh danh là Hà Thành hoa lệ hay là Hà Nội của ba mươi sáu phố phường nhưng thực chất nó là tỉnh nhỏ – người ta biết nhau cả, trực tiếp hay gián tiếp. Và tỉnh nhỏ nó còn có tục lệ riêng của nó. Thế hệ tiền bối ở Hà Nội có tiêu chuẩn ”phi cao đẳng bất thành phu phụ”. Thời tụi tôi thì cái standard về một đấng trượng phu nó nôm na và thực tiễn hơn: ”Đẹp trai, học giỏi, con nhà giàu”. Phạm Đình Chương xét ra hội đủ những điều kiện ấy: Học trò Trường Bưởi, người cao ráo sạch sẽ lại là cậu út trong một gia đình nổi tiếng. Lại còn đàn ngọt, hát hay, còn là ca trưởng của học sinh trong những dịp hội hè, cắm trại. Trong con mắt tôi, một anh học trò nhà quê ra tỉnh học, từ thời áo dài mũ trắng thì Phạm Đình Chương tư cách quá.
Thời ấy, Nhật đã vào Đông Dương. Thế Chiến thứ hai đang hồi quyết liệt, bom Mỹ dội xuống đùng đùng. Các thành phố phải ”phòng thủ thụ động”, các trường học phải đi xa hoặc dời về miền quê. Đang học mà có còi báo động là nghỉ; học trò kéo nhau ra các khu cây cối um tùm, hoặc bờ đầm, bờ sông tạm lánh. Đây là dịp tốt cho một số công tử Hà Nội, trong đó có Chương, về thăm quê cho biết sự tình. Về quê thì tiện cho tôi quá, tôi có nhiều trò: lội sông, câu cá, bắn chim. Hoặc là sẵn xe đạp, tụi tôi rủ nhau đi cắm trại ở những thắng cảnh gần Hà Nội như chùa Thày, chùa Tây Phương, động Hoàng Xá. Những thắng cảnh này đều nằm trong vùng quê tôi (phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây) nên tôi thuộc nằm lòng. Đến chùa Tây Phương thăm ông Phật nhịn ăn mà mặc, ông nhịn mặc mà ăn, ông Phật tai dài đến gối. Đến động Hoàng Xá tôi biết nhũ đá nào kêu thanh, nhũ đán nào kêu đục, bắn một phát súng cao su lên vòm đá là dơi bay tán loạn một vùng. Đến chùa Thày (Sài Sơn) thăm chùa Cả dưới chân, chợ Trời trên đỉnh núi rồi thăm hang Cắc Cớ nơi có dấu chân ông Từ Đạo Hạnh còn in. ”Hội chùa Thày vui thay Cắc Cớ, Trai không vợ nhớ hội chùa Thày – Gái không chồng nhớ ngày mà đi”. Chương ơi, Chương còn nhớ ngày hội về quê mình không? Còn nhớ con đê Hạ Hiệp không? Mới đó mà đã 50 năm rồi, đã nửa thế kỷ qua rồi. Chương có nhớ cũng không thể nào về thăm được nữa. Bạn ta đã thành người thiên cổ mất rồi.
Phạm Đình Chương rất yêu miền Quốc Oai – Sơn Tây vì không những nó là một miền thắng tích mà nơi đó còn là quê ngoại của Chương. Bà thân của Chương ở Hạ Hiệp, cách làng tôi chừng hai vạt cánh đồng. Chương tự nhận mình là người Sơn Tây và trong những năm đó Chương về thăm quê ngoại rất thường. Anh công tử Hà Nội và anh học trò nhà quê càng có dịp gần gũi nhau hơn Khi mùa Xuân đã cạn ngày, hội hè đã vãn, những cây gạo miền Bương Cấn đã tưng bừng nở đỏ thì cũng là lúc chim tu hú lảnh lót gọi hè về trong rặng vải bên sông. ”Sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc” (5), con sông này ngoài mùa ngâu nước lũ, còn quanh năm nước chảy lặng lờ. Học trò tụi tôi lại đạp xe qua sông về rặng vải, vừa tránh bom rơi đạn lạc ở thành phố, vừa cắm trại vừa ôn thi.
Nhưng đến năm 1945, thanh niên như Chương và tôi không còn đầu óc nào mà học hành thi cử nữa. Bao nhiêu vấn đề trọng đại vừa ập đến trong đời: hàng vạn, hàng triệu người chết đói. Nhật đảo chính Pháp ngày 9 tháng 3. Chính phủ Việt Nam đầu tiên ra đời. Thế chiến II kết liễu Đức – Ý – Nhật đầu hàng. Quân Tàu Tưởng kéo sang Chiến Khu Việt Minh. Đổi đời. Cách Mạng Tháng 8 Quân đội Pháp trở về, thanh niên đua nhau đi dạy bình dân học vụ, đi khất thực, đi biểu tình. Chúng tôi say mê hát ”Lên Đường”, lao đầu vào một cuộc chơi mới không kém phần lãng mạn: đòi độc lập cho đất nước. Chúng tôi là Tự vệ Thành Hà Nội. Chúng tôi là Trung đoàn thủ đô. Như lớp lớp thanh niên cùng lứa, Phạm Đình Chương và tôi khoác ba lô lên đường kháng chiến.
Tây tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
(Quang Dũng)
Những năm đầu kháng chiến (1948, 1949, 1950) có những thị trấn mọc lên vội vã. Khu 10 Việt Bắc có thị trấn Cây Đa Nước Chảy; liên khu 3 có Đồng Quan, Cống Thần, Chợ Đại; vào khu 4 Thanh Hóa có chợ Rừng Thông. Đây là nơi dân tản cư tứ xứ kéo về sinh hoạt, đổi trao, mua bán tạo thành những Hà Nội nhỏ. Mấy anh lính cậu ngày nào bây giờ sốt rét, xanh rớt như tàu lá, mắt trợn trừng, tóc rụng nhưng đêm đêm vẫn cứ mơ về Hà Nội. Và được dịp là phải về thăm các thị trấn mới này cho đỡ nhớ …
Đầu mùa đông năm 1948, tôi khoác ba lô, đổ bộ lên Chợ Đại tìm ít thuốc nivaquine chống sốt rét. Trời mưa nhớp nháp, những căn nhà tranh lụp sụp kéo dài. Chợt ở đầu đường, hiện ra một quán nước thanh bai, lịch sự mang một cái tên khá là kiểu cách ”Quán Thăng Long”. Ở trên vách quán, có treo song song mấy cây đàn nguyệt và một cây thập lục. Ở dưới, bên khay trà tỏa khói có hai vị trưởng thượng đang ngồi đối ẩm. Hai vị này tôi biết: ông thân của Phạm Đình Chương và cụ N. T. Đức, một danh cầm của toàn miền Bắc. Loạn ly, binh lửa mà hai vị tri âm, tri kỷ vẫn nhàn nhã phong lưu. Chiến tranh ở chỗ nào khác chứ ở đây Thăng Long Đông Đô, Hà Nội là vẫn cứ phải đường hoàng, cốt cách. Cốt cách như chị Thái Hằng đang ngồi trước quầy hàng, đi tản cư mà vẫn mang nguyên chiếc kiềng chạm bằng bạc của một thời khuê các, như Thái Thanh cô em nhỏ mới bắt đầu thiếu nữ đang nghiêm chỉnh ngồi đan.
Người vui nhất khi tôi được gặp là bà thân của Chương. Bà hỏi thăm “quê mình bây giờ Tây nó đánh đến đâu rồi”. Bà cho biết anh Phạm Đình Sĩ có lẽ kẹt, chưa có tin tức gì. Anh Phạm Đình Viêm (Hoài Trung) còn đang đi ban kịch Giải Phóng, chuyên hát bài ”con vỏi con voi” và ”con mèo trèo cây cau” nhạc hài hước của Nguyễn Xuân Khoát. Còn Phạm Đình Chương thì công tác ở liên khu 3, chuyên về sáng tác ca khúc. Bà khoe là Chương vừa mới được giải thưởng về bài hát ”gì mà có con cò bay lả bay la”.
À ra thế bạn ta anh công tử Hà Nội đang đưa ca dao vào nhạc mới. Chương, Chương, có phải cánh cò ấy là cánh cò bay qua rặng vải triền sông Đáy? Còn cánh đồng nào rào rạt lúa thơm mềm (6) có phải là cánh đồng Bương Cấn khi chúng ta ”Lên núi Sài Sơn ngóng lúa vàng” (7).
Tôi nhớ mãi lời bà thân của Chương khi đưa cho tôi gói thuốc đựng chừng 10 viên nivaquine:”Giữ lấy mà dùng. Dạng các cậu không được phát thuốc này đâu”. Đúng như thế, dạng “tạch, tạch, sè” (tiểu tư sản) như Chương và tôi thì dù sốt rét vàng người, rụng tóc cũng chỉ được phát thuốc ký ninh pha loãng là cùng. Nivaquine thuốc mới, công hiệu, đắt tiền chỉ đủ dùng cho “tổ chức” mà thôi. Thực tế nó là như vậy nên ngoài một số anh em đã ”áo bào thay chiếu …” (8) còn đa số dân tạch tạch sè là kẻ trước người sau “dinh tê” về Hà Nội. Những va chạm với thực tế làm cho giấc mơ tuổi trẻ lụi tàn, cuộc chơi lãng mạn đầu đời đã trở thành một nỗi đam mê vô ích. Tôi về cuối năm 49 còn Chương và gia đình hồi cư năm 51.
Gia đình Chương kỳ này có thêm một nhân vật lừng danh: Phạm Duy. Năm 1949, chiến tranh lan đến vùng chợ Đại và quán Thăng Long phải dời vào khu 4, vùng trấn nhậm của viên tướng Mạnh Thường Quân Nguyễn Sơn. Ở đây Thái Hằng đã trở thành bà Phạm Duy, Thái Thanh vừa lớn để bước chân vào làng ca nhạc. Cả gia đình Chương phục vụ trong phòng văn nghệ của một đại đoàn. Quán Thăng Long không còn nữa nhưng tiền thân của ban Hợp Ca Thăng Long đã được định hình. Tôi cũng không còn nhớ rõ gia đình Phạm Đình Chương về trước hay sau cái chết của viên tướng đầy huyền thoại Nguyễn Sơn. Chỉ biết là ban Thăng Long vào thành nhưng không ở lại Hà Nội mà vô thẳng miền Nam lập nghiệp.
Năm 1952 tôi cũng vào Nam, học nghề lính tại trường Thủ Đức. Những ngày cuối tuần ra Sài Gòn chơi, thấy đầu đường góc phố chỗ nào cũng có biểu ngữ, bích chương, quảng cáo ban Hợp ca Thăng Long. Báo hàng tuần, hằng ngày đều đăng hình ảnh, lịch trình diễn của Thái Thanh, Thái Hằng, Hoài Trung, Hoài Bắc, Phạm Duy. Ban Hợp Ca Thăng Long đang rực sáng, những thành viên của nó đang được mến yêu. Người Sài Gòn vốn bộc trực ”yêu ai cứ bảo là yêu, ghét ai cứ bảo là ghét” mà đã yêu thì yêu hết mình; chương trình của Ban Thăng Long trên đài phát thanh rất được lắng nghe – trình diễn của Ban Thăng Long lại càng ăn khách. Ngưới ta mua “giấy” báo xem thật đông, vỗ tay thật nhiều nhưng còn chưa “đã”. Buổi trình diễn xong rồi, người ái mộ còn ở lại để tìm cách đến thật gần, nhìn thật kỹ hay nếu có thể bắt cái tay, đụng cái chân vào nghệ sĩ, tài tử thần tượng của mình. Người miền Nam ái mộ ồn ào như thế, dễ thương như thế.
Trước sự tán thưởng nồng nhiệt ấy tôi có lúc đã tự hỏi: ”Vì sao mà trong một thời gian chưa đầy hai năm, Ban Hợp Ca Thăng Long lại lẫy lừng đến vậy?” Tôi vốn dốt về nhạc lý, thẩm âm cũng tầm thường thôi nên không dám đưa ra ý kiến có tính cách kỹ thuật nào. Bằng vào cái cảm quan dân dã của mình tôi nhận thấy thực chất của Ban Hợp Ca Thăng Long nằm trong một chữ vui. Vui rộn ràng khi nghe tiếng hát chen tiếng ngựa hí (Ngựa Phi Đường Xa), vui lâng lâng khi nhìn cánh cò bay lả bay la trên đồng lúa chín vàng (Được Mùa), vui đầm ấm khi nghe tiếng hò dô vang trên sóng nước (Tiếng Dân Chài), vui thấm thía nghẹn ngào khi người mẹ già cầm ly rượu uống mừng người con cả vừa mới trở về (Ly Rượu Mừng). Cái vui của nhiều cung bậc, cái vui đã được cách điệu, nên nó dễ dàng thấm đượm lòng người.
Đồng bào miền Nam xưa nay thừa thãi điệu buồn nên trong cái vô thức tập thể nó thiếu một niềm vui khỏe mạnh. Ban Hợp Ca Thăng Long phần nào đã đáp ứng được niềm khao khát đó. Ấy là chưa kể đến một yếu tố đầy cảm tính rất phù hợp với miền Nam: tất cả thành viên ban hợp ca đều là anh em trong một nhà. Một gia đình tài hoa quá. Một sự kết hợp đẹp đẽ quá. Nhất là sau đó ít lâu, ban hợp ca Thăng Long lại có thêm một thành viên mới: Khánh Ngọc, một bông hoa hương sắc của miền Nam, Hoài Bắc – Khánh Ngọc một lứa đôi nghệ thuật. Ban Hợp Ca Thăng Long càng thêm sung sức.
Nhưng phải đợi đến đầu năm 1954, Ban Hợp Ca Thăng Long mới lên đỉnh cao thành tựu của mình. Năm ấy ban Hợp ca cùng với “quái kiệt” Trần Văn Trạch, thành lập ban Gió Nam ra công diễn ở Hà Nội. Lúc ấy tôi đang là thương binh nằm nhà thương Võ Tánh. Nghe báo chí Hà Nội tán thưởng Nam Phong chi huân hề – Ngọn gió Nam mát lành thay. Nghe dân chúng Hà Nội xôn xao hâm mộ quá, tôi sốt ruột phải trốn nhà thương một buổi ra xem Gió Nam trình diễn.
Nhưng mà ra chậm hết vé mất rồi. Nhà Hát Lớn Hà Nội không còn chỗ. Tôi lững thững đứng ngoài nghe tiếng vỗ tay dồn dập từng hồi như sấm mà ruột nóng như lửa đốt. May quá gặp Ngọc Chả Cá một cây công tử Càn Long Hà Nội tôi mới được vào (bây giờ bạn ở đâu hở Ngọc?).
Người Hà Nội xưa nay khụng khiệng ít khi nào nồng nhiệt thế đâu. Nhưng mà lần này, người Hà Nội bị ban Hợp ca Thăng Long chinh phục hoàn toàn. Trước đó tân nhạc ở Hà Nội chỉ là một bà con nghèo trước cải lương, tuồng kịch … chỉ đảm nhiệm được vai trò phụ diễn trước khi mở màn hoặc giữa hai lớp kịch mà thôi. Bây giờ Ban Hợp ca Thăng Long với một chuỗi ngôi sao nhạc mới đã chiếm lĩnh sân khấu suốt hai tiếng đồng hồ liên tục. Khán giả Hà Nội được thưởng thức một chương trình nhạc mới tân kỳ sinh động tràn đầy dân tộc tính. Đây là một bước trưởng thành của tân nhạc và trở nên khuôn mẫu cho những đại nhạc hội sau này.
Buổi trình diễn vừa kết thúc, toàn ban Gió Nam ra chào khán giả. Đèn rực sáng. Những bó hoa trao cho những nghệ sĩ tài năng. Hoài Bắc Phạm Đình Chương giơ cao bó hoa vẫy vẫy, nụ cười rộng mở. Chương không thể nào biết rằng trong số khán giả vô danh ấy, có một người bạn cũ của Chương đang vỗ tay kịch liệt.
Thập niên 50 là thời kỳ rực rỡ nhất của ban Hợp ca Thăng Long. Thời gian này cũng là lúc Phạm Đình Chương sáng tác đều đặn nhất. Những bài ca chủ lực của ban Hợp ca Thăng Long như Tiếng Dân Chài, Hội Trùng Dương, Ly Rượu Mừng … đều xuất hiện trong giai đoạn này.
Không biết tôi có chủ quan không khi nghĩ rằng Phạm Đình Chương trong giai đoạn này vẫn mang dáng vẻ một anh học trò mới lớn, tâm hồn trong sáng như gương, con người, thiên nhiên đều là bè bạn. Ngựa phi đường xa thế nào cũng tới, leo núi mệt nhọc rồi cũng đến nơi, đồng ruộng thì đầy lúa thơm mềm, con sông thì đầy trăng và đầy cá. Thế vẫn còn chưa hết, Chương còn rót một ly rượu mừng, mừng khắp nhân gian. Hãy lắng nghe đi, có một nụ cười đâu đó, khi nhẹ nhàng phảng phất, khi trào lên như tiếng reo vui. Cũng có lúc Phạm Đình Chương nhắc đến điệu buồn; giọt lệ rưng rưng chờ mong bóng con của người mẹ già hay nỗi khổ của đồng bào miền đất cày lên sỏi đá:
Quê hương tôi nghèo lắm ai ơi
Mùa đông thiếu áo (9) …
Nhưng liều lượng của điệu buồn trong nhạc Phạm Đình Chương thời kỳ này rất ít so với niềm vui ào ạt, chỉ như một đối điểm (contrepoint), chỉ như màu đen làm nổi lên sắc trắng mà thôi. Mà điệu buồn cũng được nhắc đến bằng tấm lòng nhân ái, tâm hồn Chương là vậy, mở ra, hướng ngoại, trong sáng vui tươi. Chương không phải là người hướng nội, đi tìm thú đau thương trong những kiểm tra, tự vấn nơi mình. Đó là thực chất nhạc Phạm Đình Chương thời kỳ đầu cũng là đặc điểm của Ban Hợp ca Thăng Long …
Giai đoạn sáng tác thứ hai của Phạm Đình Chương bắt đầu từ một kỷ niệm buồn: Ngày Khánh Ngọc rời xa vào khoảng cuối thập niên ’50. Sau đó Phạm Duy, Thái Hằng cũng tìm về hướng khác. Ngôi biệt thự ấm cúng đường Bà Huyện Thanh Quan không người ở. Hoài Bắc, Thái Thanh và gia đình dọn về một căn nhà nhỏ đường Võ Tánh (Frères Louis cũ). Chính tại ngôi nhà này tôi thường đến bầu bạn với Phạm Đình Chương cùng với Thanh Nam, Mai Thảo. Tụi tôi đến “hầu bài” bà thân của Chương để được ăn những bữa cơm nhớ mãi: canh cua rau đay, cà pháo, đậu rán …
Lúc này, hình như Chương muốn ra khỏi vùng hào quang sáng chói của một ca sĩ thời danh để được sống bình thường nếu không muốn nói là ẩn dật. Đang ăn diện kiểu cách, Chương ăn vận xuề xòa, đi dép không quai lẹt xẹt, chiếc xe hơi dài thòng Studebaker đã được bán đi. Nụ cười kiểu jeune premier đã tắt và đặc biệt Chương để một hàm râu mép chàm ràm, rậm rịt. Lúc này, tụi tôi có một tên mới để gọi Chương: Râu Kẽm. Râu Kẽm đang phóng túng hình hài, ít ăn ít nói hẳn đi, mà có nói cũng thường hừ một tiếng giọng mũi. Một nhát chém hư vô đã làm thay đổi Phạm Đình Chương.
Ban Hợp ca Thăng Long, với sự phân liệt như thế tưởng đã rã đám. Nhưng đầu những năm ’60, ban Thăng Long gượng dậy với Hoài Trung – Hoài Bắc – Thái Thanh. Ban Thăng Long sống lại kỳ này, tuy vẫn được tán thưởng nhưng đó chỉ là cái bóng của chính mình. Phạm Duy đã mang nguồn âm sắc lung linh và trầm lắng của dân tộc đi xa, còn tiếng reo vui chan hòa và nhân ái của Phạm Đình Chương cũng không còn xuất hiện. Trong thời kỳ này ban Hợp ca Thăng Long có trình làng một tác phẩm rất được hoan nghênh: Bài Ô Mê Ly. Nhưng bài hát vui tươi này không phải của Chương mà của một tài danh khác: Văn Phụng.
Thời kỳ hướng ngoại, tâm hồn sáng tác rõ như gương, tha nhân và ngoại giới đều là bè bạn của Chương đã khép lại rồi. Tiếng cười đã tắt. Thời kỳ này là của đau thương và tiếng khóc. Nhưng khóc than rên rỉ không phải là nghề của chàng. Như đã nói, Chương không phải là người hướng nội, gặm nhấm đau thương làm thứ giải sầu. Nỗi đau thì có sẵn và Chương muốn giữ một mình nhưng lời oán hận thì không. Cho nên những khúc bi ca sau này như Nửa Hồn Thương Đau, Người Đi Qua Đời Tôi, Mưa Sài Gòn Mưa Hà Nội, Chương đều mượn lời của Thanh Tâm Tuyền, Trần Dạ Từ, Hoàng Anh Tuấn … Chương làm công việc phổ thơ, qua lời của người để phần nào nói lên tâm sự của mình. Những ca khúc này có vị trí riêng của nó, rất được yêu thích qua giọng hát Thái Thanh, nhưng đối với Chương nó vẫn như một sự ”Chẳng đặng đừng”. Về bề ngoài, hai giai đoạn sáng tác của Chương có vẻ đối nghịch nhau nhưng nhìn chung nó vẫn thống nhất trong tân hồn nhân ái của tác giả.
Nói cho ngay từ thập niên ’60 trở đi, việc ca hát đối với Chương cũng là một sự “chẳng đặng đừng”. Thì cũng phải có công ăn việc làm như người ta, ngay cả việc trông coi phòng trà ca nhạc”Đêm Màu Hồng” Chương cũng làm chơi chơi, cho có. Nhưng chính cái vẻ chơi chơi, phóng khoáng ấy nó lại hợp với khung cảnh Đêm Màu Hồng. Đây là một phòng trà gợi nhớ. Nhớ về những bài hát xa xưa, về một thuở mộng mơ đã tắt, về một khung cảnh Việt Nam đã xa, về một ban Hợp ca Thăng Long đã tàn. Phạm Đình Chương đi từ bàn này sang bàn khác cụng ly cùng người mộ điệu hoặc lên sân khấu giới thiệu một bài hát vừa được yêu cầu. Cái giọng có mang hơi rượu cùng với nụ cười nhếch mép đã tạo nên không khí Đêm Màu Hồng vì phần lớn khách đến đây đều là thân hữu.
Chúng tôi, những buổi phùng trường tác hí là vào khoảng 9, 10 giờ đêm lại tà tà kéo đến Đêm Màu Hồng. Bạn bè có chỗ ngồi riêng, giá biểu riêng. Khẩu vị như thế nào thì chủ quán biết rồi. Vũ Khắc Khoan thì phải Con Thuyền Không Bến, lúc nào cao hứng lại còn phi lên sân khấu mà ngâm”Hồ Trường, Hồ trường ta biết rót về đâu”. Thanh Tâm Tuyền thì phải Mộng Dưới Hoa. Thanh Nam thì Cô Láng Giềng. Hôm nào có mặt tôi, Thái Thanh lại hỏi: Biệt Ly hay Buồn Tàn Thu đây ông? Có bữa Râu Kẽm cảm khái quá liền ôm đàn guitare mà hát một mình (ít khi lắm). Hát tiếng Tây”Un jour si tu m’abandonnes” (Ngày nào, nếu em bỏ ta). Có khi vui anh vui em, Chương bỏ luôn phòng trà cùng Vũ Khắc Khoan, Mai Thảo kéo lên ”Quang Minh Đỉnh”.
Trong những năm ”Đêm Màu Hồng” tôi thường cố giữ một nền nếp. Cứ đêm 30 Tết gần Giao Thừa là tôi kiếm một bó hoa thường là hoa hồng đến Đêm Màu Hồng tặng Thái Thanh. Cô em nhỏ ngày nào đi kháng chiến bây giờ trở thành tiếng hát vượt thời gian. Có lần tôi nhận được cặp bánh chưng của bà thân Chương và Thái Thanh gửi cho. Tôi cầm cặp bánh mà tưởng như vừa nhận món quà Tết từ quê hương phủ Quốc gửi vào.
Những lúc ấy, năm mới sắp sang, năm cũ sắp hết mà tôi vẫn thấy Hoài Bắc, Mai Thảo ngồi từ từ uống rượu,uống cho say, uống cho quên uống không không mệt mỏi. Tôi chợt nhớ một câu của Mai Thảo ”Chúng tôi thân với nhau trong một tình thân thiết rất buồn rầu”.
Buổi cuối cùng tôi gặp Phạm Đình Chương đâu vào khoảng tháng 5 năm 1975 khi “đứt phim” được chừng hơn 1 tháng. Gặp nhau tại nhà Thanh Tâm Tuyền bên Gia Định có cả Mai Thảo nữa. Mai Thảo mang thêm một chai rượu vang còn sót lại. Các bạn có ý tiễn đưa tôi và Thanh Tâm Tuyền sắp sửa đi cải tạo. Bữa rượu im ắng thê lương.
Rồi Chương và tôi đạp xe ra về trươc. Đạp toát mồ hôi đến quãng Trần Quốc Toản thì mỗi đứa mỗi đường. Chương ngừng lại và tôi cũng ngừng theo. Chương nắm lấy tay tôi vẻ bùi ngùi mà nói: “đi nhé”. Tụi tôi xưa nay ít có cái trò nắm tay, nắm chân như vậy, nhìn nhau một cái là đủ rồi. Chừng như Chương thương cảm cho số phận tôi trước việc đi cải tạo, một chuyến đi không biết bao giờ về. Nhưng bây giờ, 16 năm sau, tôi đã đi cải tạo về rồi, Chương lại làm một chuyến đi không bao giờ trở lại. Đi nhé! Ngàn năm vĩnh biệt Phạm Đình Chương.
1) Thơ Đinh Hùng
2) Những thắng cảnh miền Quốc Oai, Sơn Tây
3) Nhạc Hoàng Quý
4) Nhạc Lưu Hữu Phước
5) Thơ Quang Dũng
6) Được Mùa, nhạc Phạm Đình Chương
7) Thơ Quang Dũng
8) Áo bào thay chiếu anh về đất – Thơ Quang Dũng
- Hội Trùng Dương, nhạc Phạm Đình Chương

Nguyễn Đình Cường và Thái Tú Hạp
Giáo sư Nguyễn đình cường
”Một chút giai thoại về bài hát Mộng Dưới Hoa”
Nhạc sĩ Phạm Đình Chương đã đóng góp nhiều tác phẩm thật đẹp, như những hạt kim cương lóng lánh, vào kho tàng tân nhạc Việt Nam – đây tôi không có tham vọng trình bày về sự nghiệp sáng tác phong phú và giá trị của ông, mà chỉ xin ghi lại một giai thoại nhỏ đã được chính ông kể trong một lần tôi chở ông trên xe khi đi thăm ca sĩ Hoài Trung đang nằm trong một bệnh viện ở Pasadena vào năm 1990. Khi tôi hỏi về trường hợp sáng tác bản Mộng Dưới Hoa thì ông cho hay là khoảng năm 1957 gì đó, ông đọc tập thơ Đường Vào Tình Sử của Đinh Hùng, thấy bài Tự Tình Dưới Hoa hay hay, có nhiều hình ảnh đẹp, lời thơ có vẻ cổ điển ước lệ với mỹ nhân, với trăng sao, mây nước, suối rừng, mơ mộng v,v…, ông bèn âm ư nho nhỏ trong miệng, rồi bật ra thành những nốt nhạc đầu tiên, và ông đã ghi lại trên giấy.
Khi phần nhạc đã hoàn chỉnh thì chỉ có một số lời thơ được giữ nguyên văn, ngoài ra chính ông và thi sĩ Đinh Hùng đã gọt giũa lại rất nhiều. Đến phần điệp khúc, thì cấu trúc của bản nhạc lại thay đổi, không thể dùng 7 chữ được vì chỉ có 6 nốt, nên ông đã yêu cầu Đinh Hùng đặt lời mới cho đoạn đó. Dĩ nhiên công việc này không quá khó khăn với nhà thơ và cũng có phần đóng góp của chính Phạm Đình Chương. Từ đó hai đoạn điệp khúc 6 chữ đã được lồng vào giữa bài hát, một cách rất khéo léo, tự nhiên và nhất quán, nghĩa là vẫn giữ được không khí rất lãng mạn và cổ điển của bài thơ.
Nhớ lại hồi còn ở trong nước, mỗi lần từ Đà Lạt về Sài Gòn, vợ chồng tôi đều đến phòng trà Đêm Màu Hồng để nghe ban Thăng Long trình diễn. Thỉnh thoảng chúng tôi được nghe chính tác giả bài hát này. Đặc biệt mỗi lần hát đến câu “Mắt xanh lả bóng dừa hoang dại” thì ông ngừng lại ngang xương khiến ban nhạc lỡ bộ, rồi nói: “Lả bóng, các bạn ạ, đừng hát Là bóng, mất đẹp của câu thơ đi.” Nói xong câu đao ông lại say sưa và mơ màng hát tiếp, ban nhạc lại ngoan ngoãn đệm theo.
Có thể nói bài hát Mộng Dưới Hoa là một hòa hợp tuyệt vời giữa thơ và nhạc của hai người bạn và cũng là hai thiên tài về thi ca và âm nhạc của chúng ta. Đây cũng là một trong những bản tình ca tuyệt đẹp của nền tân nhạc Viêt Nam. Tuy nhiên trong tuyển tập 20 bài thơ phổ nhạc nhan đề MỘNG DƯỚI HOA xuất bản năm 1991 tại Orange County, Pham Đình Chương lại ghi chú tên bài thơ là Dưới Hoa Thiên Lý. Có thể nhạc sĩ đã nhớ lầm chăng?
Sau đây chúng ta thử đọc lại cả nguyên bản bài thơ và phần lời của bản nhạc: Nguyên bản bài thơ: Tự Tình Dưới Hoa
Chưa gặp em tôi vẫn nghĩ rằng: Có nàng thiếu nữ đẹp như trăng. Mắt xanh lả bóng dừa hoang dại, Thăm thẳm nhìn tôi không nói năng. Bài thơ hạnh ngộ đã trao tay,
Ôi mộng nào hơn giấc mộng này? Mùi phấn em thơm mùa hạ cũ,
Nửa như hoài vọng, nửa như say. Em đến như mây, chẳng đợi kỳ, Hương ngàn gió núi động hàng mi. Tâm tư khép mở đôi tà áo,
Hò hẹn lâu rồi – Em nói đi.
Em muốn đôi ta mộng chốn nào? Ước nguyện đã có gác trăng sao. Truyện tâm tình: dưới hoa thiên lý, Còn lối bâng khuâng: Ngõ trúc đào. Em chẳng tìm đâu cũng sẵn thơ, Nắng trong hoa, với gió bên hồ Dành riêng em đấy. Khi tình tự,
Ta sẽ đi về những cảnh xưa. Rồi buổi ưu sầu em với tôi, Nhìn nhau cũng đũ lãng quên đi. Vai kề một mái thơ phong nguyệt, Hạnh phúc xa xa mỉm miệng cười.
Lời bài hát: Mộng Dưới Hoa
Lời 1: Chưa gặp em tôi vẫn nghĩ rằng, Có nàng thiếu nữ đẹp như trăng. Mắt xanh là bóng dừa hoang dại, Âu yếm nhìn tôi không nói năng.
Ta gặp nhau yêu chẳng hạn kỳ, Mây ngàn gió núi đọng trên mi. Áo bay mở khép nghìn tâm sự,
Hò hẹn lâu rồi – Em nói đi.
Nếu bước chân ngà có mỏi, Xin em dựa sát lòng anh, Ta đi vào tận rừng xanh, Vớt cánh rong vàng bên suối.
Ôi, hoa kề vai hương ngát mái đầu, Đêm nào nghe bước mộng trôi mau. Gió ơi, gửi gió lời tâm niệm, Và nguyện muôn chiều ta có nhau.
Lời 2: Tôi cùng em mơ những chốn nào, Ước nguyền chung giấc mộng trăng sao Sánh vai một mái lầu phong nguyệt, Hoa bướm vì em nâng cánh trao.
Hy vọng thơm như má chớm đào, Anh chờ em tới hẹn chiêm bao. Dưới hoa tưởng thấy ngàn sao rụng, Hòa lệ ân tình nguôi khát khao
Bước khẽ cho lòng nói nhỏ, Bao nhiêu mộng ước phù du, Ta xây thành mộng nghìn thu, Núi biếc, sông dài ghi nhớ.
Ôi, chưa gặp nhau như đã ước thề, Mây hồng giăng tám ngả sơn khê, Bóng hoa ngả xuống bàn tay mộng.
Và mộng em cười như giấc mê.
(Ghi lai để hoài niệm Đinh Hùng và Phạm Đình Chương)
(VĂN NGHỆ Magazine số 7-2001)
Thi sĩ thái tú hạp
Những tác phẩm của nhạc sỹ Phạm Đình Chương đều mang những sắc thái riêng biệt khi đề cập đến tình tự quê hương, dân tộc, đến tình yêu hạnh phúc đôi lứa, đến vẻ đẹp muôn màu của tạo hóa… Ở mỗi lãnh vực trong thế giới âm nhạc của Phạm Đình Chương đều cưu mang tiềm ẩn chan chứa những cảm xúc say đắm tuyệt vời qua những giây phút xuất thần cảm hứng và chính những ưu điểm tỉnh thức sáng tạo linh diệu nầy của nghệ thuật đã đưa những tác phẩm của ông vượt qua thời gian vượt qua những thăng trầm của lịch sử và mệnh nước của Dân Tộc.
Phạm Đình Chương đã tạo nên chỗ đứng trang trọng trong sinh hoạt Văn Học Nghệ Thuật Việt Nam qua những tác phẩm giá trị của ông. Trong tương quan giữa thi ca và âm nhạc Phạm Đình Chương là một trong những nhạc sỹ phổ thơ tài hoa nhất bằng những âm thanh hòa nhập vào hồn thơ và chắp cánh cho bài thơ bay bổng lên đỉnh trời nghệ thuật – Như những bài thơ Đôi Mắt Người Sơn Tây của Quang Dũng, Đêm Màu Hồng và Nửa Hồn Thương Đau ý thơ của Thanh Tâm Tuyền, Người Đi Qua Đời Tôi của Trần Dạ Từ, Đêm Nhớ Trăng Saigon, Khi Tôi Chết Hãy Mang Tôi Ra Biển của Du Tử Lê, Mưa Saigon Mưa Hà Nội của Hoàng Anh Tuấn, Mộng Dưới Hoa của Đinh Hùng, Mắt Buồn của Lưu Trọng Lư, Màu Kỷ Niệm của Nguyên Sa, Hạt Bụi Nào Bay Qua của Thái Tú Hạp….
Qua đến kiệt tác Hội Trùng Dương ông quả thật là một trong những thiên tài âm nhạc. Bằng âm hưởng ba miền đất nước thân yêu Phạm Đình Chương đã dẫn dắt người nghe chiêm nghiệm vẻ đẹp của quê hương Việt Nam gấm vóc nghìn đời không đổi thay, đi để thương và xa để nhớ quay về nguồn cội dấu yêu. Sau biến cố đau thương của lịch sử dân tộc cho dù người Việt chúng ta có lưu lạc nơi phương trời viễn xứ nào nhưng cứ mỗi độ Xuân về Tết đến chúng ta chỉ cần nghe vọng lên nhạc phẩm Ly Rượu Mừng của Phạm Đình Chương rộn ràng niềm vui chúng ta không khỏi bồi hồi tưởng nhớ đến những mùa Xuân thanh bình ở quê nhà. Cho dù Phạm Đình Chương không còn nữa nhưng những tác phẩm âm nhạc của ông đã trở thành bất tử qua thời gian và không gian trong tâm hồn người Việt chúng ta.
Thi sĩ Du Tử Lê viết về Ca khúc “Ly rượu mừng” phẩm-vật-tinh-thần trong truyền thống Tết Việt Nam
Đề cập tới sự nghiệp âm nhạc giá trị của cố nhạc sĩ Phạm Đình Chương, nếu chỉ nói tới khía cạnh thơ phổ nhạc (dù cho ông được ghi nhận như một thiên tài) mà không đề cập tới những lãnh vực khác, tôi cho là một thiếu sót không thể tha thứ. Vì từ ngày bắt đầu sáng tác, ở tuổi 17, tới ngày từ trần, ở tuổi 62, cuộc trường chinh âm nhạc của họ Phạm là, những ngọn cờ đã cắm được trên nhiều đỉnh cao nghệ thuật.
Khởi đầu với những ca khúc lấp lánh tin yêu lồng ngực tuổi trẻ, Phạm Đình Chương đi lần tới những ca khúc mang nhiều tính hiện thực, như “Tiếng dân chài,” “Được mùa,” hoặc đất nước, ca dao như “Anh đi chiến dịch,” “Lá thư người chiến sĩ,” “Khúc giao duyên,” “Mười thương”… Và, dĩ nhiên, tình ca, một đỉnh ngọn cao ngất khác của ông.
Dù ở núi non âm nhạc nào, ca từ Phạm Đình Chương cũng đều thấm đẫm thi tính. Ngay tự những ca khúc thời khởi đầu sự nghiệp, khi chỉ mới 17, 18 tuổi, người ta đã thấy ông như một thi sĩ, viết lời cho ca khúc của mình.
Thí dụ: “Bình minh xuyên qua khe núi (ú u ú u) / Nguồn vui leo tia nắng đây rồi / đem hơi ấm cho đời / trẻ như đôi mươi.” (Sáng rừng) Hay: “Có suối uốn thân ven chân núi ngân / hòa câu sơn nữ hát mong tình quân” (Đất Lành)…
Sau này, chúng ta có: “Em ơi đừng khóc sầu chia ly / vì lệ tuôn rơi làm héo xuân thì / dù đêm sâu như hồn chúng mình” (Đêm cuối cùng). Hay: “Ai chia tay ai đầu xóm vắng im lìm / Ai rung lên tia mắt ngàn câu êm đềm / Mong sao cho duyên nghèo mai nắng reo thềm / Đẹp kiếp sống thêm” (Xóm đêm). Hoặc nữa: “Chiều nay nước xuôi dòng đại dương có em tên sông Hồng dâng sóng tuôn trên nguồn. Vẩn vơ nắng quái vươn trên phù sa có những cô thôn mờ xa đón bầy dân đánh cá.” (Hội Trùng Dương / Tiếng sông Hồng). Hay: “Miền Trung vọng tiếng, em xinh em bé tên là Hương giang, đêm đêm khua ánh trăng vàng mà than. Hò ơi, phiên Đông Ba buồn qua cửa chợ, bến Vân Lâu thuyền vó đơm sâu.” (Hội Trùng Dương / Tiếng sông Hương) v.v…
Riêng với ca khúc “Xóm đêm,” tôi nghĩ, cố nhạc sĩ Phạm Đình Chương không chỉ hiển lộng bản chất thi sĩ, ông còn cho thấy khía cạnh nhà văn, hiểu theo nghĩa quan sát, ghi nhận một cách nhậy bén những chi tiết mà người bình thường (thậm chí một nhà văn tầm tầm…) khó thể nhận ra.
Nói chung, “Xóm đêm” như tên gọi, vốn là cảnh đìu hiu của một khu lao động. Ở điểm này, Phạm Đình Chương không phải là nhạc sĩ duy nhất viết về sự nghèo khó hay, khốn khổ của giai tầng lao động. Trước và sau ông, có nhiều nhạc sĩ đã, vẫn và sẽ còn khai thác đề tài ấy.
Tuy nhiên, dù cho đó là những ca khúc viết về đời nghèo, kiếp nghèo, số hoặc phận nghèo thì, đa số ca từ của những ca khúc này, thường rơi vào một trong hai trường hợp: Hoặc thậm xưng tức, cực tả cảnh nghèo. Hoặc thô thiển với những hình ảnh, ghi nhận hời hợt. Có thể, do nơi các tác giả kia, chỉ đề cập tới cái nghèo như một phông, nền cho chủ tâm khác. Nên chúng dễ mang tính trừu tượng, lãng mạn, chứ không phản ảnh một nét thực trạng nào của cảnh đời.
Căn bản ca khúc “Xóm đêm” là một tình ca, một tình ca xiển dương thương yêu (hay tin yêu), nơi bản chất thiện lương của con người dù ở hoàn cảnh nào, y cứ trên tính chung thủy – – Nhưng, nghe kỹ, trong “Xóm đêm” của họ Phạm có một cụm từ, chỉ 5 chữ thôi, ông đã vẽ lại (bằng ca từ và nốt nhạc) một trong những nét tiêu biểu nhất của sinh hoạt xóm nghèo. Đó là câu “Hắt hiu vàng ánh điện câu,” nằm trong đoạn nhạc mở đầu: “Đường về canh thâu / đêm khuya ngõ sâu như không màu / qua phên vênh có bao mái đầu / hắt hiu vàng ánh điện câu…”
Ở cụm từ “qua phên vênh,” chữ “vênh” là chữ “đắt” nhất – – Nó không chỉ mang tính tượng hình (vật chất) mà, nhờ sự vênh = cong, hé mở, chúng ta được dẫn tới hình ảnh kế tiếp: “có bao nhiêu mái đầu” (con người) – – Một hình thức ảnh-dẫn hay thông-ngữ – – (Chữ dùng trong lãnh vực thi ca về phương diện kỹ thuật) – – Cho thấy họ Phạm đã là một diệu-thủ. Mặc dù, tôi không loại bỏ trường hợp khi viết xuống, tác giả không hề có chủ tâm như tôi vừa trình bày.
Trường hợp này, chúng ta vẫn có thể dùng một trong những định nghĩa về thiên tài: Người tình cờ “bắt được” những điều mang ý nghĩa to lớn hay đơn giản, nhỏ bé mà, người khác không “bắt được!”
Nhưng khi chuyển từ ngữ-cảnh “qua phên vênh có bao mái đầu” tới “hắt hiu vàng ánh điện câu,” theo tôi, cả một thực tại xóm nghèo, đã được họ Phạm ghi khắc bằng những nhát búa cuối cùng, hoàn tất bức tượng ba chiều của cảnh đời hiu hắt này.
Ở đây, tôi xin mở một dấu ngoặc, để bạn đọc sinh trưởng ngoài Việt Nam hiểu rằng, tại những nước chậm tiến (như Việt Nam, nhất là những xóm nghèo), không phải ai cũng có được cho gia đình mình một đường giây điện riêng. Muốn có điện dùng, người nghèo phải dùng giây câu điện từ những nhà có đường giây điện chính. Vì thế, dòng điện trở nên quá yếu. Những ngọn đèn vẫn sáng lên, nhưng nó cũng chỉ có thể cho những gia đình này, một thứ ánh sáng yếu ớt, vàng vọt!…
Tuy nhiên, tài hoa của cố nhạc sĩ Phạm Đình Chương không dừng ở “Xóm đêm.” Đỉnh cao nhạc thuật của ông được thời gian đánh giá, ghi nhận, qua trường ca bất tử “Hội Trùng Dương,” và ca khúc “Ly rượu mừng.”
Với tôi, trường ca “Hội Trùng Dương” của Phạm Đình Chương là bức tranh toàn cảnh Việt Nam nghìn đời, với tất cả nét đẹp của phong tục, tập quán, truyền thống dùm bọc, thương yêu…được ông mượn hình ảnh 3 con sông của ba miền, chảy trôi trên nền dân ca từng phần đất nước; trước khi chúng nắm tay nhau, cùng chảy ra biển lớn.
Vẫn theo cảm nhận của tôi thì, trường ca “Hội Trùng Dương” của Phạm Đình Chương còn tàng-ẩn ý nghĩa hợp nhất, chấm dứt cuộc phân ly, đoạn bào theo huyền sử trăm con của Việt tộc, với 50 con lên núi, 50 con xuống biển nữa. Phải chăng, đó là tính vĩ đại của trường ca này?
Dù vậy, cũng ở trường ca vừa kể, tôi biết có người đã đặt vấn đề:
-Nơi đoạn thứ hai “Tiếng sông Hương” của trường ca, có câu: “Ngày vui tan đao binh, mẹ bồng con sơ sinh, chiều đầu xóm, xôn xao đón người trường chinh,” là một khuyết điểm lớn, không thể chấp nhận được! Số người này lý luận rằng, khi tác giả tả người chồng đi lính lâu năm (trường chinh), người vợ ở nhà, thủy chung chờ chồng thì, không thể có con mới đẻ (sơ sinh). Trừ phi…ngoại tình!
Tới giờ, tôi vẫn còn kinh ngạc trước cái gọi là “khám phá” người phát ngôn kia! Họ đã không phân biệt được hiện thực trong văn nghệ, không hề là hiện thực trong đời thường!
Theo tôi, một sự thực trăm phần trăm trong đời thường, khi được thi sĩ, nhạc sĩ… mang vào văn bản, sáng tác của họ, lập tức, nó không còn là sự thực “nguyên mẫu.” Nó đã bị khúc xạ. Tôi muốn gọi đó là sự-thực-khúc-xạ. Cách khác, chúng ta luôn có nhiều hơn một sự thật. Nhất là với văn học, nghệ thuật, Huống hồ chi, hình ảnh người vợ bồng con sơ sinh, đón chồng chinh chiến trở về, trong trường ca “Hội Trùng Dương” chỉ có tính biểu tượng (symbolization). Một biểu tượng đoàn viên. Gia đình. Hạnh phúc.
Tôi không nghĩ, một người có trình độ hiểu biết trung bình nào, lại đi tìm tính xác thực trong “Chinh phụ ngâm khúc,” hay “Đoạn trường tân thanh”… Tôi cũng không nghĩ, một người chưa mất trí nào, lại đi đo đếm độ chân xác trong “Thơ say” của Vũ Hoàng Chương, “Lửa thiêng” của Huy Cận, “Mê hồn ca” của Đinh Hùng, hoặc “Hòn vọng phu” của Lê Thương…
Trở lại ca khúc “Ly rượu mừng” ở tỷ lệ (scale) nhỏ hơn, ca khúc này theo tôi, đã như một phẩm-vật-tinh-thần dâng cúng tổ tiên mỗi độ Xuân về. Vẫn theo tôi, đó là “ly rượu” đất nước gấm hoa, “ly rượu” tổ quốc độc lập, “ly rượu” ước mơ quê hương muôn đời thanh bình, được chia đều cho “anh nông phu,” “người thương gia,” “người công nhân,” qua tới “người chiến sĩ,” “bà mẹ già,” “đôi uyên ương” “người nghệ sĩ”…Một phân chia bình đẳng, đồng đều cho mọi tầng lớp. Tôi muốn nhấn mạnh thêm, người ta có thể tìm thấy đặc tính phân biệt giai cấp ở nhiều dân tộc, nhiều quốc gia trên thế giới. Nhưng Việt Nam thì không.
Nếu nhớ lại câu ca dao “Nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ,” ta sẽ thấy mọi cố tình phân chia giai cấp trong xã hội Việt Nam, là một áp đặt kiên cưỡng, trá ngụy theo mô hình xã hội tây phương. Và, người chỉ ra sự cưỡng chế vừa kể, chính là Phạm Đình Chương, tác giả “Ly rượu mừng” vậy.
Với thời gian, một số tục lệ đón mừng Nguyên Đán của chúng ta, có thể đã hay sẽ phải thay đổi. Như chúng ta đang bỏ dần tục “xông đất” đầu năm. Như nhiều gia đình người Việt ở hải ngoại, vì lý do gia cư, đã bắt đầu “thắp” những nén nhang điện (không mùi hương); đốt những giây pháo điện (không xác pháo)…Nhưng, ca khúc “Ly rượu mừng” tôi tin, sẽ còn, mãi còn như một phẩm-vật-tinh-thần không thể thiếu của tập thể ta, mỗi mùa xuân về.
Bởi vì, đó là “ly rượu… mừng!” Ly rượu tâm thức. Chúng ta không chỉ cùng nhau nâng cao ly rượu ấy, những dịp mừng Xuân – – Mà, chúng ta còn có thể chia nhau ly rượu tâm thức này, bất cứ lúc nào; khi hoan lạc mỉm cười với chúng ta.
Rất mong, cố nhạc sĩ Phạm Đình Chương, ở đâu đó trong cõi vô hình, hiểu rằng, chúng tôi đã tiếp nhận một ca khúc của ông, như thế!
Thi sĩ Du Tử Lê về PĐC-2/3
về ca khúc đêm nhớ trăng sàigòn
” Chú cháu tôi ngồi ngoài patio và tiếp tục câu chuyện. Tôi đặt ra câu hỏi – Ca khúc phổ thơ nào của chú mà chú thích nhất? Khi Cuộc Tình Đã Chết (Sài gòn) hay Quê Hương Là Người Đó/ Khi Tôi Chết Hãy Đem Tôi Ra Biển/ Đêm Nhớ Trăng Sàigòn (tại Cali) ?” P.T.

Người Việt Tây Bắc News
Người việt tây bắc news
Lời giới thiệu: Ngay sau hai xuất thu hình được nhiều khán thính giả từng ngưỡng mộ dòng nhạc thính phòng Phạm Đình Chương rồi đến một ít tâm tình của producer Phạm Thành, trưởng nam của cố nhạc sĩ Phạm Đình Chương, người “trách nhiệm quản lý, chăm sóc di sản Phạm Đình Chương trên trang Người Việt Tây Bắc và trang Facebook-Trung Tâm Asia, cùng với nhiều lời dẫn giải chính xác và trân trọng dành cho một đời âm nhạc của Phạm Đình Chương, khiến nhiều độc giả và khán giả của các nơi đã muốn được biết tới các “di sản” nghệ thuật, và sáng tác do anh Phạm Thành đã thực hiện từ vài năm qua rồi.
Trong mối thiện cảm dành cho các công trình của trưởng nam và cũng có công của cháu đích tôn của cố nhạc sĩ nữa, Người Việt Tây Bắc hân hạnh giới thiệu cuộc trò chuyện ngắn với người có thẩm quy6ền nhất, biết nhiều nhất, và mong ước các di sản ấn phẩm các ca khúc và các dĩa nhạc Phạm Đình Chương được trân trọng đến tận đời sống, lòng yêu thưởng ngoạn và những âm điệu yêu thương đã lần lượt ra đời từ sáu thập niên qua. (NVTB)
1 – Người Việt Tây Bắc: Xin cám ơn anh Phạm Thành về thời gian quý báu, sự cởi mở thân thiện anh dành cho phóng viên báo chí, truyền hình, đặc biệt là khán thính giả sau khi thưởng thức DVD chủ đề Phạm Đình Chương Mộng Dưới Hoa đã và đang tìm kiếm bộ đĩa mà tôi đang cầm trong tay, Bộ CD nhạc tuyển, với tựa đề “Phạm Đình Chương-Tình Khúc Tiêu Biểu”-The Collection.
P.T.: Đây là một công trình thu âm, khởi đầu từ năm 2012 và hoàn tất sau ba năm vào năm 2015. Tôi quyết định bắt tay vào việc này vì trước đó tôi có in ra được một cuốn nhạc mang tên là Phạm Đình Chương-Toàn Bộ Sáng Tác
với mục đích là để có được một cuốn sách nhạc với đầy đủ các tác phẩm mang tên Phạm Đình Chương, để gìn giữ sự chính xác về nhạc và lời và đạt được tiêu chuẩn in ấn sách nhạc của Hoa Kỳ.
Kể cũng vui vui, vì trong mùa hè 2011 đó thì con trai của tôi cháu về thăm nhà. Tôi rủ cháu Đức (tức là cháu đích tôn của NS PDC) cùng tôi soạn cuốn sách và nhờ vậy, hai cha con tôi đã hoàn tất được cuốn sách đầy công phu vào mùa hè năm đó.
Khi làm xong và thấy là số lượng sáng tác của ông không nhiều – vỏn vẹn chỉ có 44 bài ca – nên tôi đã nẩy ra ý định làm một bộ đĩa để đi kèm với cuốn sách. Và sau đó các ca khúc trong bộ Collection này đều được thu âm mới, trong khoảng thời gian từ 2012 tới 2015, qua phần cộng tác của ca nhạc sĩ trong và ngoài nước và với kỹ thuật thu âm tân kỳ của những năm gần đây.
2 – PK: Hay và quý quá. Tôi cũng ngạc nhiên khi được biết, toàn bộ sáng tác của Nhạc sĩ Phạm Đình Chương, chỉ có 44 bài. Phạm Thành nói thêm về việc sưu tầm tài liệu để có đủ số 44 bài này.
P.T.: Trong thập niên 80, khi ông mới sang Hoa Kỳ thì cha con tôi có thực hiện được một tuyển tập nhỏ, mang tên “Hai mươi ca khúc thơ phổ nhạc PDC”. Tuy nhiên, số 24 ca khúc còn lại thì chưa được soạn tới. Khi thân phụ tôi bạo bệnh và qua đời vào năm 1991 thì tôi nhận được vài cái dossier mà ông vẫn dùng để giữ những bài bản được viết cho các buổi trình diễn trước đó. Tuy nhiên đây là các bài hoà âm được viết cho ban nhạc dùng, chỉ đơn giản và không có lời ca.
Khi lúng túng trong một số vấn đề như lời ca, nốt nhạc v.v… mà trong nhà không có tài liệu gì để kiểm chứng thì qua việc tìm kiếm khắp nơi, kể cả các phần do thiên hạ post trên mạng từ Việt Nam, tôi đã đọc được rất nhiều các bài ca được phát hành từ thời 50, 60 với những bìa nhạc minh hoạ thời đó. Từ đó cũng tìm được những chi tiết quan trọng như ngày xuất bản và nguyên bản lời ca để dùng làm tài liệu cho cuốn sách nhạc đang thực hiện lúc đó.
Cũng nên nhắc về một điều quan trọng cho mọi tác giả, đó là sự chính xác cho các ca khúc mà họ sáng tác- nhất là khi tác giả nay đã mất đi và đôi khi, ngay cả lúc sinh tiền cũng không nhớ những gì mình viết mấy chục năm trước. Do đó, các mục post không xin phép trên mạng bỗng đem lại được một điều ích lợi nho nhỏ cho người xuất bản. Cũng nhờ vào các nguồn tài liệu khác nhau mà tôi vừa nói trên, cuốn sách nhạc Phạm Đình Chương-Toàn Bộ Sáng Tác theo tôi, đã trở thành một ấn phẩm chính thức và quan trọng.
3 – PK: Hãy cho đọc giả biết qua về những ý nghĩ đưa việc thực hiện bộ đĩa hiếm quý này.
P.T.: Trong khoảng thời gian cuối cùng khi tôi sống gần thân phụ mình cho tới ngày ông mất đi, thì tôi đã học được những chi tiết quan trọng về các ca khúc PDC mà tôi muốn chia sẽ với những người yêu nhạc ông, cũng như để lại cho thế hệ trẻ trong và ngoài nước có thể chưa từng biết hay biết rất ít về tác giả Phạm Đình Chương. Có lẽ tạm gọi là để cho dòng nhạc Việt có một nguồn tài liệu đầy đủ và chính xác mai sau, từ bài bản, cách thức tác giả đã từng trình bày lúc còn sống tới những ghi chú bên lề mà ông để lại.
4 – PK: Tại sao đó là điểm người trình diễn cần biết và Phạm Thành dẫn giải những điều đó bằng cách nào?
P.T.: Qua những phần ghi chú của chính tác giả về từng tác phẩm một – thí dụ ca khúc Mộng Dưới Hoa, phổ từ thơ của thi sĩ Đinh Hùng thì bối cảnh ra sao? Viết năm nào? Ca khúc Nửa Hồn Thương Đau được viết trong bối cảnh nào? Tôi thiết nghĩ đó là những chi tiết giúp người đọc hiểu thêm về tác phẩm và khoảng thời gian nó được tác giả viết nên.
Tuy nhiên, để có thể dẫn giải về cách thức trình bày của từng ca khúc, thì cần phải là những phần thu âm. Đó là lý do tôi quyết định bước vào việc thực hiện bộ đĩa. Hầu hết các ca khúc, nếu là những ca khúc quan trọng thì đều được dựa vào các phần hoà âm do chính tác giả viết. Nhưng những phần trình bày theo ý tác giả do đó đã được tôi thực hiện thật đầy đủ cho trên 44 bài thu âm trong bộ đĩa.
5 – PK: Phạm Thành nói qua về cấu trúc của 4 cái đĩa nhạc trong bộ đĩa Collection này.
P.T.: Đĩa volume 1 bao gồm 1 số những ca khúc do ban hợp ca Thăng Long hải ngoại với Mai Hương, Hoài Trung và tác giả với biệt hiệu là Hoài Bắc trình bày và thu âm trong thập niên 80 tại Hoa Kỳ. Những phần thu âm này để ghi dấu sự thành công thứ hai của tác giả trong lãnh vực trình diễn mà ông dìu dắt và thực hiện. Đĩa volume 2 chủ đề Ly Rượu Mừng, với tất cả 4 ca khúc về Xuân, dĩ nhiên không thể thiếu Ly Rượu Mừng (hoà âm của chính tác giả), Được Mùa, Đất Lành, Khúc Giao Duyên v.v… tóm lại là mang nhiều chủ đề tình tự dân tộc. Đĩa volume 3 mang chủ đề Hội Trùng Dương, với phần thu âm rất đặc sắc của Trường Ca Hội Trùng Dương, do cố nhạc sĩ Nghiêm Phú Phi soạn phần hoà âm bè ca cho ban đại hợp xướng và phần hoà âm nhạc nền của nhạc sĩ Phạm Quang Phúc từ Việt Nam. Và sau cùng, đĩa volume 4 – chủ đề Đêm, Nhớ Trăng Sàigòn, được dàng riêng cho các ca khúc thơ phổ nhạc thành công và được nhiều người yêu thích từ suốt 60 năm qua.
6 – PK: Phạm Thành cho biết về những ca khúc nào mà nhạc sĩ Phạm Đình Chương ưng ý nhất cũng như các ca khúc nào mà Phạm Thành vừa ý nhất với phần thực hiện
Tôi thiết nghĩ tác giả nào cũng có những đứa con tinh thần mà họ cho là thành công nhất về khía cạnh sáng tác. Trong trường hợp của nhạc sĩ Phạm Đình Chương thì tôi cho là cũng là một câu hỏi khó trả lời vì trong số 44 bài thì có rất nhiều bài thành công, lại thuộc vào nhiều thể loại khác nhau, như tình ca, thơ phổ nhạc, tình tự dân tộc, những ca khúc cho tuổi trẻ, những sáng tác cho hợp ca v.v… Riêng về khía cạnh sáng tác thì tôi cho là ông ưng ý nhất với Hội Trùng Dương, Ly Rượu Mừng, Xuân Tha Hương, Đón Xuân, Sáng Rừng… Riêng về lãnh vực phổ thơ thì ông yêu ca khúc Đôi Mắt Người Sơn Tây – cùng với một số ca khúc thơ phổ nhạc ít phổ biến hơn – trong đó có Dạ Tâm Khúc, Màu Kỷ Niệm, Đêm Màu Hồng và trong thời gian tại Hoa Kỳ là 3 ca khúc Đêm, Nhớ Trăng Sàigòn, Ta ở Trời Tây và Hạt Bụi Nào Bay Qua.
Riêng về phần hai của câu hỏi thì tôi hết sức hài lòng với phần thu âm của trường ca Hội Trùng Dương (hoà âm tuyệt vời của cố nhạc sĩ Nghiêm Phú Phi và nhạc sĩ trẻ Phạm Quang Phúc, cùng ban hợp ca trong và ngoài hải ngoại mà tôi gọi là ban hợp ca Mộng Dưới Hoa).
Riêng về đơn ca thì phải kể tới bài Đôi Mắt Người Sơn Tây, phần thu âm nguyên thuỷ vào năm 1982 với tiếng hát của tác giả và phần thu âm mới vào năm 2012, với hai tiếng hát của cha con tôi ghép lại, theo kiểu cha con ca sĩ Nat King Cole và cô con gái là Natalie Cole đã làm trước đây.
7 – PK: Những điều vui buồn chia sẽ với đọc giả, trong việc thực hiện bộ đĩa
P.T.: Cho tới ngày nay, khi nghe lại và thấm nhuần thêm về từng ca khúc trong bộ đĩa, từng lời ca, từng câu hát thì tôi vẫn luôn có những giây phút chạnh lòng, xúc động và không ít tiếc nuối thương cảm. Nếu tôi không thực hiện được project này thì tôi cũng chỉ là một người con hiếu hạnh bình thường của các gia đình nhạc sĩ khác, với lòng yêu thương cha ông tiêu biểu của một người con gốc Việt với cha họ. Do đó, mặc dù nếu không có khả năng hay phương tiện tài chính để thực hiện được một công trình (mà nhà thơ Trần Dạ Từ đã gọi là một công trình lớn) cho ông cha của mình thì cũng đành để cho những dòng nhạc đó mai một theo năm tháng. Và điều đó cũng dễ hiểu và không thể trách ai được.
Nhưng may mắn cho tôi vì tôi có được một số khả năng cần thiết về ấn loát, thiết kế graphic cũng như chút hiểu biết về nhạc, cộng với những kinh nghiệm trước đây về việc thực hiện những công trình thu âm v.v… nên tôi đã hoàn tất được như ý nguyện của mình. Niềm hạnh phúc vô bờ, sự hãnh diện to tát mà tôi cảm nhận được từ đó, tôi cho đây là một niềm hạnh phúc đặc biệt mà dường như chính thân phụ tôi đã gửi riêng về tặng cho tôi cho quãng thời gian hoạt động đó vì… tôi đã làm việc này.
8 – PK: Những khía cạnh nào trong phần thực hiện vừa qua đã làm Phạm Thành nhớ tới thân phụ mình nhất?
Khi hoàn tất xong cuốn sách nhạc cùng bộ đĩa này thì dường như tôi đã thấy con đường mà tác giả đã đi qua, trải dài từ những năm bắt đầu với ca khúc đầu tay là bài “Ra đi khi trời vừa sáng” viết năm 17 tuổi, tới trường ca Hội Trùng Dương mà ông viết khi mới 20 ngoài cho tới lúc viết xong ca khúc cuối cùng là Ta Ở Trời Tây vào năm 1982 tại Orange County. Nó gợi nhớ cho tôi khoảng thời gian ấu thơ mà tôi sống bên cạnh cha mình khi tôi đã vô tư không hề biết gì về tài soạn nhạc của cha mình là người đã viết nên ca khúc Ly Rượu Mừng lẫy lừng và muôn thủa của Việt Nam. Thật là buồn cười.
Nhưng tôi nhớ rõ về khoảng thời gian sau cùng khi cha con tôi đoàn tụ tại Cali sau năm 1979. Tôi được sống gần ông khoảng 12 năm cho tới khi ông qua đời. Tôi cho đó là khoảng thời gian ấm áp và hạnh phúc nhất, nhờ nhiều kỷ niệm gia đình khi sống bên ông.
Riêng về nhạc thì có hai ca khúc, Màu Kỷ Niệm (ý thơ Nguyên Sa) và Hạt Bụi Nào Bay Qua (thơ Thái Tú Hạp) đã gợi lại trong tôi nhiều kỷ niệm nhất. Khi ông đã dạy tôi hát hai bài này…và (cười to) ông đã chê là tôi hát …không có hồn. (mặc dù ông không nói là tại sao lại không có hồn và làm sao để có hồn). Sau này tôi nghiệm ra là vì lúc đó mới tập hát trong một thời gian quá ngắn ngủi… và có lẽ lúc đó tôi còn trẻ quá! (Và ông thầy nhạc thì không muốn con mình theo nghiệp ca hát..nên chả buồn chỉ dạy làm gì.)
9 – PK: Phạm Thành cho biết những dự tính trong tương lai gần đây.
Thưa anh, chắc anh cũng biết tôi chỉ là một tiếng hát tài tử. Tôi có hát trong bộ đĩa một số bài mà tôi cho là thân phụ tôi nếu còn sống mà nghe được, chắc ông sẽ không còn chê bai như ngày xưa nữa .(P.T. cười vui).
Ồ, ông cụ anh Kim đã đặt cho tôi một cái tên mà tôi thấy rất hợp ý mình. Cụ gọi tôi là : Phạm Thành, trưởng nam của cố nhạc sĩ Phạm Đình Chương, người “trách nhiệm quản lý, chăm sóc di sản Phạm Đình Chương”. Anh Kim nhớ cho tôi gửi lời kính chào bác và lời cảm ơn vì đúng là cái tên gọi này đã nói lên được trọn vẹn cái công việc và trách nhiệm nặng nề của tôi trong suốt trên 27 năm qua.
Cụ còn gọi nhạc sĩ Phạm Đình Chương là “cây đại thụ của âm nhạc Việt Nam”. Tôi cũng xin cảm ơn lòng yêu ái của cụ đối với thân phụ tôi. (Cười vui) Cây đại thụ này lúc còn sống dáng dấp gầy nhom… Tuy nhiên tôi rất hãng diện về ông, về sự nghiệp sáng tác của ông cũng như con người khả ái ngoài đời của ông mà ai cũng yêu mến khi gặp gỡ quen biết.
Nói chung, tôi muốn tìm cách để phổ biến tới các thế hệ sau này về dòng nhạc mang tên Phạm đình Chương để nó mãi mãi được ca vang lên. Do đó, việc quản trị trang online mang tên Phạm Đình Chương.com sẽ là một công trình mà tôi muốn dành nhiều thì giờ để hoàn chỉnh và làm cho trọn vẹn. Như là một nguồn tài liệu chính thức về tác giả, với những phần youtube hay, những phần dẫn giải phong phú cho những ai muốn hát nhạc của ông, chuyên nghiệp hay tài tử đều cần biết.
10 – PK: Sau khi trò chuyện ngày hôm nay thì tôi mới biết về trang phamdinhchuong.com cùng với những sản phẩm mà P.T. đã thực hiện. Cách thức bán sách và bộ đĩa ra sao?
Tôi có thiết kế trên trang online phamdinhchuong.com. để người yêu nhạc có thể tìm biết và mua nhạc từ đó. Trong chi tiết của từng đĩa nhạc, từng bài ca đều có phần nhạc ngắn để nghe thử y như trên itunes vậy. Người mua có thể trả tiền qua Paypal hay gửi check thẳng tới tôi.
Trong năm nay thì tôi đang chuẩn bị để thực hiện hai việc. Một là làm thêm một cái đĩa đơn mang tên là “The essential Phạm Đình Chương” – gồm khoảng 12 bài lừng danh và hay nhất, chọn lọc từ số 44 ca khúc trong bộ đĩa đang có. Đĩa này sẽ được bán theo hình thức streaming, y như trong itunes, tức là bấm nút và có download ngay xuống máy của mình. Hai là việc cho in thêm sách nhạc “Phạm Đình Chương-toàn bộ sáng tác”, ấn bản lần thứ hai – mà trong đó có kèm theo cái CD- “The essential Phạm Đình Chương” vừa nói.
Với thời đại tin học mà càng ngày chúng ta càng mua bán thường xuyên hơn trên online, tôi chỉ mong rằng những gì mà nhạc sĩ Phạm Đình Chương đã để lại cho đời nay sẽ tiếp tục được nhiều người từ trong nước Việt Nam tới trên cùng khắp năm Châu trên thế giới, sẽ dễ dàng đến và tìm hiểh thêm về sự nghiệp sáng tác của nhạc sĩ Phạm Đình Chương – chỉ qua một cái bấm trên mạng.
Để tìm hiểu thêm hay nghe các phần thu âm của project Phạm Đình Chương-Tình Khúc Tiêu Biểu-The Collection, xin mời vào trang phamdinhchuong.com.
(Hết)